lcp
OPT
Medigo - Thuốc và Bác Sĩ 24h

Đặt thuốc qua tư vấn ngay trên app

MỞ NGAY
Thuốc tiêm khớp Humira 40mg/0,8ml hộp 2 ống

Thuốc tiêm khớp Humira 40mg/0,8ml hộp 2 ống

Danh mục:Thuốc xương khớp
Thuốc cần kê toa:
Hoạt chất:Adalimumab
Dạng bào chế:Dung dịch tiêm
Thương hiệu:Zuellig Pharma
Số đăng ký:VN-11670-11
Nước sản xuất:Đức
Hạn dùng:24 tháng kể từ ngày sản xuất.
Vui lòng nhập địa chỉ của bạn, chúng tôi sẽ hiện thị nhà thuốc gần bạn nhất
Lưu ý: Sản phẩm này chỉ bán khi có chỉ định của bác sĩ. Mọi thông tin trên website và app chỉ mang tính chất tham khảo. Vui lòng liên hệ với bác sĩ, dược sĩ hoặc nhân viên y tế để được tư vấn thêm.
Chọn địa chỉ giao thuốc để xem nhà thuốc gần nhất
Giao đến
icon pharmacy premium

Đánh giá
-/-
Khoảng cách
-
Phản hồi chat
-
Xem sản phẩmNhận tư vấn

Medigo Cam Kết

Giao hàng nhanh chóng
Nhà thuốc uy tín
Dược sĩ tư vấn miễn phí
Dược sĩDược sĩ Nguyên Đan
Đã duyệt nội dung
Dược sĩ
Dược sĩ Nguyên Đan
Đã duyệt nội dung

Thông tin sản phẩm

1. Thành phần của Humira 40mg/0,8ml

Mỗi 0,8ml dạng bơm tiêm chứa Adalimumab 40 mg.

2. Công dụng của Humira 40mg/0,8ml

Viêm khớp dạng thấp
Humira kết hợp với methotrexate được chỉ định để:
- Điều trị viêm khớp dạng thấp hoạt động ở mức độ trung bình hoặc nặng ở bệnh nhân trưởng thành khi mà sự đáp ứng với các thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh bao gồm cả methotrexate không đầy đủ.
- Điều trị viêm khớp dạng thấp thể nặng, hoạt động và tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành chưa được điều trị với methotrexate trước đó.
- HUMIRA có thể được sử dụng đơn trị liệu trong trường hợp không dung nạp với methotrexate hoặc khi việc tiếp tục điều trị với methotrexate là không còn phù hợp.
- HUMIRA được chứng minh làm giảm tốc độ tiến triển hủy khớp được đo bằng X-quang và giúp cải thiện chức năng thể chất, khi được dùng cùng với methotrexate.
Viêm khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên
Viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên
Humira kết hợp với methotrexate được chỉ định trong điều trị viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên thể hoạt động ở bệnh nhân từ 2 tuổi mà không đáp ứng đầy đủ với một hoặc nhiều hơn các thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh (DMARDs). Humira có thể được dùng đơn trị liệu trong trường hợp không dung nạp với methotrexate hoặc khi việc tiếp tục điều trị với methotrexate là không phù hợp (xem hiệu quả của đơn trị liệu trong mục Dược lực học). Humira chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân dưới 2 tuổi.
Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám gân
Humira được chỉ định trong điều trị viêm khớp thể viêm điểm bám gân hoạt động ở bệnh nhân từ 6 tuổi trở lên, không đáp ứng đủ hoặc không dung nạp với liệu pháp truyền thống (xem mục Dược lực học).
Viêm khớp cột sống thể trục
Viêm cột sống dính khớp (AS)
- Humira được chỉ định để điều trị viêm cột sống dính khớp hoạt động nặng ở bệnh nhân trưởng thành mà đáp ứng không đủ với liệu pháp truyền thống.
Viêm khớp cột sống thể trục không có bằng chứng hình ảnh học của viêm cột sống dính khớp
Humira được chỉ định điều trị viêm khớp cột sống thể trục nặng ở người trưởng thành không có bằng chứng hình ảnh của viêm cột sống dính khớp nhưng có những dấu hiệu viêm khách quan như tăng CRP và/hoặc MRI, những người đáp ứng không đủ hoặc không dung nạp với thuốc kháng viêm không steroid.
Viêm khớp vảy nến
HUMIRA được chỉ định điều trị viêm khớp vảy nến hoạt động và tiến triển ở người trưởng thành khi không đáp ứng đầy đủ với liệu pháp sử dụng thuốc chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh. HUMIRA cho thấy làm giảm tốc độ tiến triển của việc hủy các khớp ngoại biên, được đo trên X quang ở những bệnh nhân viêm đa khớp thể đối xứng (xem Dược lực học) và cải thiện chức năng thể chất.
Vảy nến
Humira được chỉ định điều trị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính trung bình đến nặng ở bệnh nhân trưởng thành, những người có thể sử dụng liệu pháp toàn thân.
Vảy nến thể mảng ở trẻ em
Humira được chỉ định điều trị vảy nến thể mảng mạn tính nặng ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 4 tuổi, những người đáp ứng không đầy đủ hoặc không phù hợp cho việc sử dụng liệu pháp ngoài da hoặc liệu pháp ánh sáng.
Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ (HS)
Humira được chỉ định trong điều trị viêm tuyến mồ hôi mưng mủ hoạt động mức độ trung bình tới nặng (mụn trứng cá đảo ngược) ở bệnh nhân trưởng thành và thanh thiếu niên từ 12 tuổi đáp ứng không đủ với liệu pháp điều trị viêm tuyến mồ hôi dạng mủ toàn thân truyền thống (xem mục Dược lực học và Dược động học).
Bệnh Crohn
HUMIRA được chỉ định trong điều trị bệnh Crohn hoạt động mức độ trung bình hoặc nặng ở bệnh nhân trưởng thành không có đáp ứng với liệu trình đầy đủ với corticosteroid và/hoặc chất ức chế miễn dịch, hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc có chống chỉ định với những liệu pháp như trên.
Bệnh Crohn ở trẻ em
Humira được chỉ định trong điều trị bệnh Crohn hoạt động mức độ trung bình cho đến nặng ở bệnh nhân nhi (từ 6 tuổi) đã có đáp ứng không đầy đủ với liệu pháp truyền thống bao gồm liệu pháp dinh dưỡng căn bản và một corticosteroid và/hoặc một thuốc ức chế miễn dịch, hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc chống chỉ định với các liệu pháp như trên.
Bệnh viêm loét đại tràng
Humira được chỉ định trong điều trị bệnh viêm loét đại tràng thể trung bình tới nặng ở bệnh nhân trưởng thành đáp ứng không đủ với liệu pháp truyền thống gồm corticosteroid và 6-mercaptopurine (6-MP) hoặc azathioprine (AZA) hoặc bệnh nhân không dung nạp hoặc có chống chỉ định với các liệu pháp trên.
Viêm màng bồ đào
Humira được chỉ định trong điều trị viêm màng bồ đào trung gian, sau và lan tỏa ở bệnh nhân trưởng thành có đáp ứng không đầy đủ với corticosteroid, ở bệnh nhân cần điều trị thay thế corticosteroid hoặc ở bệnh nhân mà việc điều trị với corticosteroid là không phù hợp.
Viêm màng bồ đào trẻ em
Humira được chỉ định trong điều trị viêm màng bồ đào mạn tính ở bệnh nhân từ hai tuổi có đáp ứng không đầy đủ hoặc không dung nạp với liệu pháp thông thường hoặc ở bệnh nhân mà việc điều trị với liệu pháp thông thường là không phù hợp.

3. Liều lượng và cách dùng của Humira 40mg/0,8ml

Bệnh nhân trưởng thành:
- Viêm khớp dạng thấp, Viêm cột sống dính khớp, Viêm khớp cột sống thể trục không có bằng chứng hình ảnh học về viêm cột sống dính khớp, Viêm khớp vảy nến: liều đơn 40 mg mỗi 2 tuần (40 mg mỗi tuần nếu giảm đáp ứng trong đơn trị viêm khớp dạng thấp), xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 12 tuần.
- Vảy nến: khởi đầu 80 mg, tiếp theo 40 mg mỗi 2 tuần bắt đầu một tuần sau liều đầu tiên; xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 16 tuần; nếu đáp ứng không đầy đủ sau 16 tuần: 40 mg mỗi tuần [sau khi tăng tần suất liều: xem xét lợi ích/nguy cơ việc tiếp tục điều trị (nếu đáp ứng không đủ), hoặc 40 mg mỗi 2 tuần (nếu đạt đáp ứng đầy đủ)].
- Viêm tuyến mồ hôi mưng mủ: ngày 1: 160 mg (4 liều 40 mg vào một ngày hoặc 2 liều 40 mg/ngày x 2 ngày liên tiếp), 2 tuần sau vào ngày 15: 80 mg (2 liều 40 mg trong một ngày), 2 tuần sau vào ngày 29: 1 liều 40 mg mỗi tuần; xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 12 tuần.
- Viêm loét đại tràng: tuần 0: 160 mg (4 mũi/ngày, hoặc 2 mũi/ngày x 2 ngày liên tiếp), tuần 2: 80 mg, sau đó 40 mg mỗi 2 tuần (nếu giảm đáp ứng: 40 mg mỗi tuần); không nên tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 2-8 tuần.
- Bệnh Crohn: tuần 0: 80 mg, tuần 2: 40 mg [nếu cần đáp ứng nhanh hơn, tuần 0: 160 mg (4 mũi/ngày hoặc 2 mũi/ngày x 2 ngày liên tiếp), tuần 2: 80 mg, với nhận thức rõ là nguy cơ biến cố bất lợi cao hơn], sau đó 40 mg mỗi 2 tuần (nếu giảm đáp ứng: 40 mg mỗi tuần, nếu không đáp ứng sau tuần 4: duy trì tới tuần 12); xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 12 tuần;
- Viêm màng bồ đào: khởi đầu 80 mg (có thể kết hợp corticosteroid và/hoặc chất điều hòa miễn dịch không sinh học khác và giảm liều corticosteroid từ hai tuần sau khi bắt đầu điều trị với Humira), tiếp tục 40 mg mỗi 2 tuần bắt đầu một tuần sau liều đầu tiên; đánh giá mỗi năm lợi ích/nguy cơ việc tiếp tục điều trị dài hạn.
Bệnh nhi:
- Viêm đa khớp tự phát từ 2 tuổi: Liều dùng dựa trên cân nặng cơ thể: 10-<30kg: 20 mg mỗi 2 tuần, ≥30kg: 40 mg mỗi 2 tuần; xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 12 tuần.
- Viêm màng bồ đào từ 2 tuổi: <30kg: 20 mg mỗi 2 tuần phối hợp methotrexate, ≥30kg: 40 mg mỗi 2 tuần kết hợp với methotrexate. Khi bắt đầu điều trị với Humira, liều tải 40 mg cho bệnh nhân <30kg hoặc 80 mg cho bệnh nhân ≥30kg có thể được sử dụng 1 tuần trước khi bắt đầu chế độ điều trị duy trì.
- Viêm khớp thể viêm điểm bám gân từ 6 tuổi: cân nặng 15-30kg: 20 mg mỗi 2 tuần; ≥30kg: 40 mg mỗi 2 tuần.
- Vảy nến thể mảng từ 4 tuổi: Cân nặng từ 15-<30kg: liều khởi đầu 20 mg, tiếp tục liều 20 mg mỗi 2 tuần sau khi dùng liều khởi đầu 1 tuần; ≥30kg: liều khởi đầu 40 mg, tiếp tục liều 40 mg mỗi 2 tuần sau khi dùng liều khởi đầu 1 tuần; xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trong vòng 16 tuần.
- Bệnh Crohn từ 6 tuổi: <40kg: tuần 0: 40 mg, tuần 2: 20 mg [nếu cần đáp ứng nhanh hơn: tuần 0: 80 mg (có thể 2 mũi một ngày), tuần 2: 40 mg, với nhận thức rõ là nguy cơ biến cố bất lợi có thể cao hơn], sau đó 20 mg mỗi 2 tuần (nếu đáp ứng không đủ: 20 mg mỗi tuần); ≥40kg: tuần 0: 80 mg, tuần 2: 40 mg [nếu cần đáp ứng nhanh hơn: tuần 0: 160 mg (4 liều tiêm trong một ngày hoặc 2 liều tiêm một ngày trong hai ngày liên tiếp), tuần 2: 80 mg, với nhận thức rõ rằng nguy cơ biến cố bất lợi có thể cao hơn], sau đó 40 mg mỗi 2 tuần (nếu đáp ứng không đủ: 40 mg mỗi tuần); xem xét việc tiếp tục điều trị nếu không đáp ứng trước tuần 12.

4. Chống chỉ định khi dùng Humira 40mg/0,8ml

- Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ tá dược nào được liệt kê trong mục Thành phần.
- Lao thể hoạt động hoặc những nhiễm trùng nghiêm trọng khác như: nhiễm trùng huyết hoặc nhiễm trùng cơ hội (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
- Suy tim mức độ trung bình cho tới nặng (phân loại NYHA mức III/IV) (xem mục Cảnh báo và thận trọng).

5. Thận trọng khi dùng Humira 40mg/0,8ml

Cảnh báo
Truy xuất nguồn gốc
Để cải thiện việc truy xuất nguồn gốc các chế phẩm sinh học điều trị, tên và số lô của sản phẩm được sử dụng nên được ghi chép rõ ràng.
Nhiễm trùng
- Bệnh nhân dùng kháng thuốc TNF nhạy cảm hơn với những nhiễm trùng nghiêm trọng. Suy giảm chức năng phổi có thể tăng nguy cơ phát triển nhiễm trùng. Vì thế, bệnh nhân nên được giám sát chặt chẽ về tình trạng nhiễm trùng, gồm cả lao, trước, trong và sau điều trị với Humira. Vì việc thải trừ Humira có thể mất đến bốn tháng nên việc giám sát nên được tiếp tục trong suốt khoảng thời gian này.
- Việc điều trị bằng Humira không nên được bắt đầu với bệnh nhân có nhiễm trùng thể hoạt động, bao gồm cả nhiễm trùng mạn tính hay khu trú cho tới khi nhiễm trùng được kiểm soát. Ở bệnh nhân đã phơi nhiễm với lao và bệnh nhân đi tới vùng có nguy cơ lao hoặc bệnh nấm cao như nhiễm histoplasma, coccidioides hoặc blastomyces, nguy cơ và lợi ích của việc điều trị bằng Humira nên được xem xét trước khi bắt đầu điều trị (xem Các nhiễm trùng cơ hội khác).
- Bệnh nhân phát triển một nhiễm trùng mới khi đang điều trị với Humira nên được giám sát chặt chẽ và trải qua một đánh giá chẩn đoán tổng thể. Việc dùng Humira nên được dừng lại nếu một bệnh nhân phát triển một nhiễm trùng mới nghiêm trọng hoặc nhiễm trùng huyết và một liệu trình kháng sinh hay kháng nấm nên được bắt đầu cho tới khi kiểm soát được nhiễm trùng. Bác sĩ điều trị nên cẩn trọng khi xem xét việc dùng Humira ở bệnh nhân có tiền sử nhiễm trùng tái lại hoặc có tình trạng bệnh lý đi kèm mà làm bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bao gồm cả việc sử dụng đồng thời các thuốc ức chế miễn dịch.
Nhiễm trùng nặng
- Nhiễm trùng nặng, bao gồm cả nhiễm trùng huyết, do vi khuẩn, trực khuẩn, nấm xâm lấn, ký sinh trùng, virus hay những nhiễm trùng cơ hội khác như listeria, legionella và pneumocystis đã được báo cáo ở những bệnh nhân sử dụng Humira.
- Những nhiễm trùng nặng khác thấy trong những thử nghiệm lâm sàng bao gồm, viêm phổi, viêm thận bể thận, viêm khớp nhiễm khuẩn và nhiễm khuẩn máu. Nhập viện và những kết cục tử vong khác liên quan đến nhiễm trùng đã được báo cáo.
Lao
- Lao, bao gồm cả lao tái hoạt động và lao mới, đã được báo cáo ở những bệnh nhân sử dụng Humira. Những báo cáo này gồm những ca lao phổi và lao ngoài phổi (rải rác).
Trước khi điều trị với Humira, tất cả bệnh nhân nên được đánh giá về nhiễm trùng lao cả thể hoạt động và thể tiềm ẩn. Việc đánh giá này bao gồm một sự đánh giá y khoa chi tiết về tiền sử lao, hoặc phơi nhiễm trước đó với người có lao đang hoạt động và việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch hiện tại hay trước đó. Các xét nghiệm sàng lọc phù hợp (xét nghiệm tuberculin và X- quang) nên được thực hiện ở tất cả các bệnh nhân (có thể áp dụng các khuyến cáo địa phương). Việc tiến hành và kết quả của các xét nghiệm này được khuyến cáo nên ghi chép trong thẻ cảnh báo bệnh nhân. Người kê đơn được nhắc về nguy cơ kết quả xét nghiệm turberculin âm tính giả, đặc biệt ở bệnh nhân bệnh nặng hoặc bị suy giảm miễn dịch.
- Nếu được chẩn đoán lao thể hoạt động, việc dùng Humira không nên bắt đầu (xem mục Chống chỉ định).
- Trong tất cả các tình huống được miêu tả ở dưới, cán cân lợi ích/nguy cơ của việc điều trị nên được xem xét một cách rất cẩn thận.
- Nếu nghi ngờ lao tiềm ẩn, bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị lao nên được tham vấn.
- Nếu chẩn đoán có lao tiềm ẩn, việc điều trị thích hợp nên được bắt đầu với điều trị dự phòng lao trước khi bắt đầu điều trị với Humira, tương thích với các khuyến cáo tại địa phương.
- Việc sử dụng liệu pháp kháng lao dự phòng nên được xem xét trước khi bắt đầu dùng Humira ở bệnh nhân với vài yếu tố hoặc yếu tố nguy cơ có ý nghĩa với lao mặc dù xét nghiệm lao âm tính và ở những bệnh nhân có tiền sử lao tiềm ẩn hoặc lao hoạt động mà không thể xác nhận việc đã được điều trị lao đủ liệu trình.
- Dù được điều trị dự phòng với lao, nhiều ca lao tái phát đã xảy ra ở bệnh nhân điều trị với Humira. Một số bệnh nhân đã được điều trị thành công với lao hoạt động đã tái mắc lao trong khi được điều trị với Humira.
- Bệnh nhân nên được hướng dẫn tìm những lời khuyên y khoa nếu dấu hiệu/triệu chứng gợi ý nhiễm trùng lao (ví dụ: ho lâu, hao mòn/giảm cân, sốt nhẹ, lơ đãng) xảy ra trong hoặc sau khi điều trị với Humira.
Các nhiễm trùng cơ hội khác
- Nhiễm trùng cơ hội, bao gồm cả nhiễm nấm xâm lấn đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân sử dụng Humira. Những nhiễm trùng này không được nhận thấy một cách thống nhất ở những bệnh nhân dùng các thuốc kháng TNF và điều này dẫn đến việc trì hoãn trong việc sử dụng liệu trình phù hợp, đôi khi còn dẫn đến những kết cục gây chết người.
- Những bệnh nhân phát triển dấu hiệu và triệu chứng như sốt, mệt mỏi, giảm cân, ra mồ hôi, ho, khó thở, và/hoặc thâm nhiễm phổi hoặc những bệnh toàn thân nghiêm trọng khác có hoặc không có sốc đi kèm, nên nghi ngờ một nhiễm nấm xâm lấn và việc sử dụng Humira nên được dừng sớm. Việc chẩn đoán và sử dụng liệu pháp kháng nấm theo kinh nghiệm ở những bệnh nhân này nên có sự tham vấn với bác sĩ điều trị có kinh nghiệm trong việc chăm sóc bệnh nhân nhiễm nấm xâm lấn.
Viêm gan siêu vi B tái hoạt động
- Sự tái hoạt viêm gan siêu vi B đã xảy ra ở những bệnh nhân sử dụng thuốc kháng TNF, bao gồm cả Humira, ở những bệnh nhân mang virus mạn tính (kháng thể bề mặt dương tính). Một số trường hợp đã có kết cục gây chết người. Bệnh nhân nên được xét nghiệm nhiễm virus viêm gan B trước khi bắt đầu điều trị với Humira. Với bệnh nhân, có xét nghiệm virus viêm gan B dương tính, việc tham vấn với bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị viêm gan B là được khuyến cáo.
- Những người mang virus viêm gan B cần điều trị với Humira nên được giám sát chặt chẽ những dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng viêm gan B hoạt động trong suốt liệu trình và nhiều tháng sau khi kết thúc điều trị. Không có dữ liệu đầy đủ từ việc điều trị những bệnh nhân mang virus viêm gan B bằng liệu pháp kháng virus kết hợp cùng với liệu pháp kháng TNF để ngăn chặn sự tái hoạt virus viêm gan B. Ở bệnh nhân đã có sự tái hoạt virus viêm gan B, nên ngừng Humira và một liệu trình kháng virus có hiệu lực cùng điều trị hỗ trợ phù hợp nên được bắt đầu.
Các biến cố thần kinh
Các thuốc kháng TNF, gồm cả Humira, có liên quan tới hiếm những trường hợp khởi phát mới hoặc tăng nặng các triệu chứng lâm sàng và/hoặc bằng chứng hình ảnh học của bệnh hủy myelin hệ thống thần kinh trung ương bao gồm xơ cứng bì hệ thống và viêm dây thần kinh thị giác và bệnh thoái hóa myelin ngoại biên, bao gồm hội chứng Guillain-Barre. Người kê đơn nên xem xét cẩn thận trong việc sử dụng Humira ở bệnh nhân đã có hoặc mới khởi phát những rối loạn thoái hóa myelin ở hệ thần kinh trung ương và ngoại biên, việc dừng sử dụng Humira nên được xem xét nếu những rối loạn này xuất hiện. Có sự liên quan được biết đến giữa viêm màng bồ đào trung gian và rối loạn thoái hóa myelin trung ương. Đánh giá chức năng thần kinh nên được thực hiện ở những bệnh nhân viêm màng bồ đào trung gian trước khi bắt đầu điều trị với Humira và định kỳ trong suốt quá trình điều trị để đánh giá những rối loạn thoái hóa myelin trung ương đã tồn tại trước đó hoặc đang phát triển.
Phản ứng dị ứng
Các phản ứng dị ứng nghiêm trọng liên quan đến Humira là hiếm trong các thử nghiệm lâm sàng. Những phản ứng dị ứng không nghiêm trọng liên quan đến Humira là không thường gặp trong các thử nghiệm lâm sàng. Những báo cáo về những phản ứng dị ứng nghiêm trọng gồm phản ứng phản vệ đã được ghi nhận sau khi sử dụng Humira. Nếu một phản ứng phản vệ hoặc phản ứng dị ứng nghiêm trọng khác xuất hiện, việc dùng Humira nên được dừng ngay lập tức và các liệu pháp thích hợp nên được bắt đầu.
Ức chế miễn dịch
Trong một nghiên cứu có 64 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị với Humira, không thấy có bằng chứng về sự giảm các phản ứng tăng nhạy cảm dạng chậm, giảm lượng globulin miễn dịch hoặc thay đổi gồm các tế bào phản ứng lại kích thích tế bào T, tế bào B, tế bào diệt tự nhiên, đơn bào, đại thực bào và bạch cầu trung tính.
Các bệnh ác tính và rối loạn tăng sinh bạch cầu lympho
- Trong những phần đối chứng của các thử nghiệm lâm sàng với các chất đối kháng TNF, nhiều ca ác tính, bao gồm cả u lympho đã được quan sát thấy ở bệnh nhân nhóm dùng các thuốcTNF hơn so với bệnh nhân trong nhóm đối chứng. Tuy nhiên, việc xảy ra này hiếm.Trong bối cảnh sau lưu hành, những trường hợp bệnh bạch cầu đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị bằng thuốc kháng TNF. Có sự tăng nguy cơ nền cho u lympho và bệnh bạch cầu ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có phản ứng viêm hoạt động mạnh, lâu dài, điều này làm phức tạp thêm sự ước tính nguy cơ. Với những kiến thức hiện tại, nguy cơ có thể trong việc phát triển bệnh u lympho, bệnh bạch cầu và những bệnh ác tính khác ở bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF là không thể loại trừ.
- Bệnh ác tính, một số trong đó gây chết người, đã được báo cáo ở bệnh nhân nhi, thiếu niên, và người trẻ tuổi (cho tới 22 tuổi) được điều trị với thuốc đối kháng TNF (bắt đầu điều trị khi không quá 18 tuổi), bao gồm cả adalimumab trong giai đoạn sau lưu hành. Khoảng nửa số các trường hợp là u lympho. Những trường hợp khác đại diện cho nhiều bệnh ác tính khác nhau và bao gồm những bệnh ác tính hiếm gặp, thường có liên quan đến việc ức chế hệ miễn dịch. Nguy cơ phát triển các bệnh lý ác tính ở trẻ em và vị thành niên được điều trị với thuốc đối kháng TNF là không thể loại trừ.
- Một số hiếm các trường hợp ung thư hạch tế bào lympho T gan lách sau lưu hành đã được xác định ở bệnh nhân điều trị bằng adalimumab. Loại u lympho T hiếm gặp này có một quá trình diễn tiến bệnh rất nguy kịch và thường gây tử vong. Một vài trường hợp trong số các ung thư hạch tế bào lympho T gan lách điều trị với Humira xảy ra ở bệnh nhân trẻ, được điều trị với azathioprine hoặc 6-mercaptopurine cho bệnh viêm ruột. Nguy cơ tiềm tàng với kết hợp azathioprine hoặc 6-mercaptopurne và Humira nên được xem xét cẩn thận. Nguy cơ phát triển bệnh ung thư hạch tế bào lympho T gan lách ở bệnh nhân điều trị với Humira không thể được loại trừ (xem mục Tác dụng không mong muốn).
- Chưa có nghiên cứu nào có sự tham gia của những bệnh nhân có tiền sử bệnh ác tính hoặc những bệnh nhân được điều trị bằng Humira tiếp tục sau sự phát triển của một bệnh ác tính. Do đó, cần thận trọng xem xét việc sử dụng Humira trong điều trị ở những bệnh nhân này (xem mục Tác dụng không mong muốn).
- Tất cả bệnh nhân và đặc biệt bệnh nhân có tiền sử sử dụng liệu pháp ức chế miễn dịch kéo dài, hoặc bệnh nhân vảy nến có tiền sử điều trị bằng PUVA nói riêng, nên được thăm khám để xác định ung thư da melanoma, trước và trong khi điều trị với Humira. Melanoma và ung thư tế bào Merkel đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với các thuốc kháng TNF, bao gồm cả adalimumab (xem mục Tác dụng không mong muốn).
- Trong một nghiên cứu lâm sàng thăm dò đánh giá việc sử dụng của các thuốc kháng TNF khác, infliximab, ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) trung bình đến nặng, nhiều bệnh ác tính, hầu hết ở phổi, đầu và cổ, được báo cáo ở bệnh nhân điều trị bằng infliximab nhiều hơn so với bệnh nhân nhóm đối chứng. Tất cả các bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá nhiều.
- Vì vậy, cần thận trọng trong việc sử dụng bất cứ một thuốc kháng TNF nào ở bệnh nhân COPD, cũng như những bệnh nhân với tăng nguy cơ bệnh lý ác tính do hút thuốc lá nhiều.
Với những dữ liệu hiện tại chưa cho biết liệu việc điều trị với adalimumab có ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển loạn sản hoặc ung thư đại tràng. Tất cả các bệnh nhân viêm loét đại tràng, những người có tăng nguy cơ loạn sản hoặc ung thư đại tràng (ví dụ, bệnh nhân viêm loét đại tràng lâu dài hoặc viêm xơ đường mật nguyên phát), hoặc người có tiền sử loạn sản hay ung thư đại tràng trước đó nên được sàng lọc loạn sản đều đặn trước khi dùng thuốc và trong suốt quá trình diễn tiến bệnh. Việc đánh giá nên gồm cả việc soi đại tràng và sinh thiết theo khuyến cáo địa phương.
Các phản ứng huyết học
Một số hiếm các báo cáo về giảm ba dòng tế bào máu, bao gồm thiếu máu không tái tạo được báo cáo với các thuốc kháng TNF. Biến cố có hại ở hệ huyết học, bao gồm việc giảm các dòng tế bào máu có ý nghĩa y học (ví dụ: giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu) đã được báo cáo với Humira. Tất cả bệnh nhân nên được khuyên tìm kiếm sự chăm sóc y khoa ngay nếu có các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý sự loạn tạo máu (sốt kéo dài, bầm, chảy máu, xanh xao) khi dùng Humira. Việc ngừng liệu pháp Humira nên được xem xét với bệnh nhân rối loạn huyết học quan trọng được xác định.
Sử dụng vaccin
- Sự đáp ứng kháng thể tương tự với vaccin phế cầu 23 valent tiêu chuẩn và vaccin virus cúm 3 valent được quan sát trong một nghiên cứu 226 bệnh nhân trưởng thành có viêm khớp dạng thấp được điều trị với adalimumab hoặc giả dược. Không có dữ liệu sẵn có về việc truyền bệnh thứ phát do vaccin sống ở bệnh nhân dùng Humira.
- Bệnh nhi được khuyến cáo, nếu có thể, cập nhật tất cả các mũi tiêm chủng tương thích với hướng dẫn tiêm chủng hiện hành trước khi điều trị bằng Humira.
- Bệnh nhân điều trị bằng Humira có thể tiêm chủng đồng thời, ngoại trừ vaccin sống. Việc tiêm chủng vaccin sống với trẻ sơ sinh đã phơi nhiễm với adalimumab trong tử cung không được khuyến cáo trong vòng năm tháng sau liều tiêm adalimumab cuối cùng của mẹ trong thời kỳ mang thai.
Suy tim sung huyết
Trong một thử nghiệm lâm sàng với thuốc kháng TNF khác quan sát thấy sự làm nặng thêm suy tim sung huyết và tăng tỷ lệ tử vong do suy tim sung huyết. Nhiều ca nặng thêm tình trạng suy tim sung huyết đã được báo cáo ở bệnh nhân sử dụng Humira. Humira nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân suy tim nhẹ (phân loại NYHA I/II). Humira chống chỉ định trong suy tim sung huyết trung bình đến nặng (xem mục Chống chỉ định). Điều trị với Humira phải được ngưng ở bệnh nhân phát triển triệu chứng mới hoặc xấu đi của suy tim sung huyết.
Các quá trình tự miễn
- Việc điều trị với Humira có thể dẫn đến sự hình thành các kháng thể tự miễn. Tác động của việc điều trị dài hạn với Humira với sự phát triển của bệnh tự miễn là chưa được biết. Nếu một bệnh nhân phát triển những triệu chứng gợi ý hội chứng giống lupus sau khi điều trị với Humira và dương tính với kháng thể kháng DNA mạch đôi, việc điều trị thêm với Humira không nên được tiếp tục (xem mục Tác dụng không mong muốn).
Việc dùng đồng thời với các thuốc sinh học chống thấp khớp làm thay đổi diễn tiến bệnh (DMARDs) hoặc các thuốc kháng TNF:
- Những nhiễm trùng nghiêm trọng được thấy trong các nghiên cứu lâm sàng có sử dụng đồng thời anakinra và một thuốc kháng TNF khác, etanercept, không mang thêm lợi ích lâm sàng nào so với việc dùng etanercept đơn độc. Vì bản chất các biến cố bất lợi được thấy khi kết hợp etanercept và anakinra, những độc tính tương tự có thể do sự kết hợp anakinra và các thuốc kháng TNF khác. Vì vậy, sự kết hợp adalimumab và anakinra không được khuyến cáo (xem mục Tương tác).
- Việc dùng đồng thời adalimumab với các DMARDs sinh học khác (anakinra và abatacept) hoặc các thuốc kháng TNF khác không được khuyến cáo dựa trên việc có thể tăng nguy cơ nhiễm trùng, bao gồm những nhiễm trùng nghiêm trọng và những tương tác dược lý tiềm tàng khác (xem mục Tương tác).
Phẫu thuật
Những kinh nghiệm về sự an toàn của các quy trình phẫu thuật trên bệnh nhân sử dụng Humira còn hạn chế. Thời gian bán thải dài của adalimumab nên được xem xét nếu lên kế hoạch phẫu thuật. Một bệnh nhân cần phẫu thuật khi đang điều trị với Humira nên được giám sát nhiễm trùng một cách chặt chẽ cùng với những hành động phù hợp. Kinh nghiệm an toàn ở bệnh nhân thay khớp nhân tạo khi dùng Humira còn hạn chế.
Sự tắc ruột non
Thất bại đáp ứng với điều trị bệnh Crohn có thể biểu thị sự tồn tại của hẹp xơ hóa cố định cần phẫu thuật. Dữ liệu hiện có cho thấy Humira không làm nặng hơn hoặc gây ra hẹp.
Người lớn tuổi
Tần suất những nhiễm trùng nghiêm trọng ở bệnh nhân điều trị với Humira trên 65 tuổi (3,7%) là cao hơn so với những bệnh nhân dưới 65 tuổi (1,5%). Một vài trong số đó có kết cục tử vong. Khi điều trị bệnh nhân lớn tuổi nên có sự chú ý đặc biệt, liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng.
Bệnh nhi
Xem mục Sử dụng vaccin ở trên.
Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc:
Humira có thể có ảnh hưởng nhỏ lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Chóng mặt và suy giảm thị giác có thể xảy ra sau khi dùng Humira (xem mục Tác dụng không mong muốn).

6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú

Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản/Sự tránh thai ở nam và nữ
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được khuyến cáo mạnh mẽ nên có biện pháp ngừa thai đầy đủ để ngăn sự mang thai và tiếp tục dùng ít nhất năm tháng sau lần điều trị cuối cùng bằng Humira.
Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai
- Những dữ liệu lâm sàng về sự phơi nhiễm với Humira trong thời kỳ mang thai còn hạn chế.
- Trong một nghiên cứu độc tính đang diễn tiến, thực hiện trên khỉ, không thấy dấu hiệu của độc tính trên mẹ, độc tính trên phôi và hoạt tính gây quái thai. Các dữ liệu tiền lâm sàng trên độc tính sau khi sinh của adalimumab không có (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
- Do tính chất ức chế TNFα, adalimumab dùng trong thời kỳ mang thai có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bình thường ở trẻ mới sinh. Việc dùng adalimumab không được khuyến cáo trong thời kỳ mang thai.
- Adalimumab có thể đi qua hàng rào nhau thai vào huyết thanh của trẻ sơ sinh nếu mẹ được điều trị với adalimumab trong thời kỳ mang thai. Do đó, những trẻ sơ sinh này có thể có nguy cơ nhiễm trùng. Việc dùng vaccin sống cho trẻ sơ sinh phơi nhiễm với adalimumab trong tử cung không được khuyến cáo trong vòng 5 tháng sau liều tiêm adalimumab cuối cùng của mẹ trong thời kỳ mang thai.
Cho con bú
- Việc adalimumab có bài tiết trong sữa người hay được hấp thu vào hệ thống tuần hoàn sau khi sử dụng thuốc hay không thì không được rõ.
- Tuy nhiên, vì globulin miễn dịch người được bài tiết trong sữa nên phụ nữ không nên cho con bú trong vòng ít nhất năm tháng sau lần điều trị cuối cùng bằng Humira.
Sự thụ thai
Không có dữ liệu tiền lâm sàng về ảnh hưởng của adalimumab lên sự thụ thai.

7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc

Humira có thể có ảnh hưởng nhỏ lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Chóng mặt và suy giảm thị giác có thể xảy ra sau khi dùng Humira

8. Tác dụng không mong muốn

Rất phổ biến:
Nhiễm trùng đường hô hấp; giảm bạch cầu, thiếu máu; tăng lipid; đau đầu; đau bụng, nôn, buồn nôn; tăng enzym gan; ngứa (bao gồm ngứa bong vảy); đau cơ xương; phản ứng tại vị trí tiêm (bao gồm ban đỏ tại vị trí tiêm).
Phổ biến:
Nhiễm trùng hệ thống, đường ruột, da và mô mềm, tai, miệng, đường sinh dục, đường tiết niệu, khớp; nhiễm nấm; ung thư da ngoại trừ melanoma, u lành tính; tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu; quá mẫn, dị ứng; hạ kali máu, tăng acid uric, natri máu bất thường, giảm calci máu, giảm đường máu, giảm phosphat máu, sự mất nước; thay đổi tâm trạng (gồm trầm cảm), lo lắng, mất ngủ; dị cảm (bao gồm giảm xúc cảm), đau nửa đầu, chèn ép rễ thần kinh; giảm thị lực, viêm kết mạc, viêm mí mắt, sưng mắt; chóng mặt; chứng nhịp tim nhanh; cao HA, đỏ bừng, ổ tụ huyết; hen, khó thở, ho; xuất huyết đường tiêu hóa, chứng khó tiêu, trào ngược dạ dày thực quản, h/c sicca; vảy nến nặng hơn hay vảy nến mới khởi phát (bao gồm vảy nến mụn mủ lòng bàn tay-chân), mày đay, thâm tím (gồm cả ban xuất huyết), viêm da (gồm cả eczema), gãy móng, tăng tiết mồ hôi, rụng tóc, ngứa; co thắt cơ (gồm tăng creatin phosphokinase máu); suy giảm chức năng thận, đái ra máu; đau ngực, phù, sốt; rối loạn đông máu và chảy máu (bao gồm kéo dài thời gian thromboplastin riêng phần hoạt hóa), kiểm tra kháng thể tự miễn dương tính (gồm kháng thể kháng DNA chuỗi kép), tăng lactat dehydrogenase máu; giảm hồi phục.

9. Tương tác với các thuốc khác

- HUMIRA được nghiên cứu trong bệnh viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp tự phát tuổi thanh thiếu niên và viêm khớp vảy nến, bệnh nhân dùng HUMIRA đơn trị liệu hoặc dùng cùng với methotrexate. Sự hình thành kháng thể thì thấp hơn khi HUMIRA được sử dụng cùng với methotrexate so với dùng đơn trị liệu. Việc dùng Humira không có methotrexate dẫn đến tăng sự hình thành kháng thể, tăng thải trừ, và giảm tác dụng của adalimumab (xem mục Dược lực học).
- Sự kết hợp HUMIRA và anakinra không được khuyến cáo (xem mục Cảnh báo và thận trọng "Việc dùng cùng với các DMARDs sinh học hoặc các chất đối kháng TNF").
- Việc kết hợp HUMIRA và abatacept không được khuyến cáo (xem mục Cảnh báo và thận trọng "Việc dùng đồng thời với các DMARDs sinh học hoặc các chất đối kháng TNF").

10. Dược lý

Cơ chế tác dụng:
- Adalimumab gắn đặc hiệu vào TNF và trung hòa chức năng sinh học của TNF bằng cách khóa sự tương tác với các thụ thể bề mặt tế bào TNF p55 và p75.
- Adalimumab cũng điều hòa những đáp ứng sinh học được gây ra hoặc được điều hòa bởi TNF, bao gồm sự thay đổi trong mức độ phân tử kết dính chịu trách nhiệm cho sự di chuyển của bạch cầu (ELAM-1, VCAM-1 và 1CAM-1 với một nồng độ ức chế 50% IC50 là 0,1 đến 0,2 nM).
Tác dụng dược lực
- Sau khi điều trị vói Humira. một sự giảm nhanh chóng nồng độ chất phản ứng trong pha cấp của viêm (CRP và tốc độ lắng hồng cầu ESR) và cytokine huyết thanh (IL-6) được quan sát thấy, so vói mức cơ bản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Nồng độ huyết thanh của matrix metalloproteinases (MMP-1 và MMP-3) tạo sự tái cấu trúc mô, chịu trách nhiệm cho sự hủy sụn cũng giảm đi sau khi dùng Humira. Bệnh nhân điều trị với Humira thường có sự cải thiện về những dấu hiệu huyết học của viêm mạn tính.
- Một sự giảm nhanh nồng độ CRP cũng được quan sát thấy ở bệnh nhân viêm đa khớp tự phát thiếu niên, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng và viêm tuyến mồ hôi mưng mủ sau khi điều trị với Humira. Ở bệnh nhân Crohn quan sát thấy được sự giảm số lượng những tế bào biểu hiện những dấu chứng viêm ở đại tràng, bao gồm một sự giảm có ý nghĩa sự biểu hiện TNFα.

11. Quá liều và xử trí quá liều

Không một độc tính giới hạn liều nào được quan sát trong những thử nghiệm lâm sàng. Mức liều cao nhất được đánh giá là chế độ đa liều tiêm tĩnh mạch 10 mg/kg, cao hơn mức liều khuyến cáo xấp xỉ 15 lần.

12. Bảo quản

Bảo quản thuốc ở nhiệt độ 2 - 8°C (trong tủ lạnh). Không được làm đông lạnh. Giữ nguyên bút tiêm trong hộp giấy, tránh ánh sáng.

Xem đầy đủ
MUA HÀNG