Theo y học cổ truyền
Lá và cành tươi Ba chạc
Dùng ngoài:
Được nấu với nước hoặc giã đắp để trị ghẻ, mụn nhọt, lở ngứa, rửa các vết thương, chốc đầu. Ngoài ra, người Trung Quốc còn sử dụng lá và cành tươi ba chạc để chữa vết thương nhiễm khuẩn, viêm mủ da, áp xe, eczema
Dùng trong:
Chữa bệnh viêm họng, viêm amidan, ho mắt mờ, trẻ em sốt cao sinh kinh giật, phụ nữ mới sinh mất sữa, kém ăn hoặc bị chứng nhiệt sinh khát. Ở Trung Quốc còn để phòng bệnh cúm, bệnh truyền nhiễm, viêm não, đột quỵ não, cảm lạnh, viêm gan.
Thân và rễ
Được sử dụng để làm thuốc bổ đắng (giúp ăn ngon, dễ tiêu), điều kinh. Ngoài ra còn được dùng để chữa phong thấp, đau gân nhức xương, tê bại, bán thân bất toại.
Theo y học hiện đại
Tác dụng kháng khuẩn:
Nghiên cứu ở Trung Quốc thấy nước sắc Ba chạc (1/1) có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ Shigella ở nồng độ pha loãng 1:25, không có tác dụng trên trực khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheriae. Ở Việt Nam cao lỏng lá và và cành non có tác dụng không đáng kể trên các vi khuẩn Bacillus pyocyaneus, Proteus, Shigella sonnei, Shigella shiga, Salmonella typhi, Sarcina lutea, Escheria coli, Klebsiella, và nấm Candida albicans.
Tác dụng lợi sữa
Trên mô hình diều chim bồ câu, cao cồn và nước sắc lá và cành non Ba chạc, liều tính theo dược liệu khô là 10g/kg/ngày, sau khi cho uống 10 ngày, tế bào biểu mô diều chim bồ câu chuyển sang màu đăng ten, trong đó có 1/5 con đã hình thành tuyến sữa, có nghĩa là Ba chạc có tác dụng lợi sữa.
Một thử nghiệm khác trên 35 phụ nữ cho con bú uống nước sắc lá và cành khô ngày 12g liền nhiều ngày. Sau 3 ngày, sữa tăng nhiều là 15 (42,8%), tăng vừa là 14 (40%), không có kết quả 6 (17,2%).