Theo y học cổ truyền
Duối có vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, thông huyết, cầm máu, sát trùng. Người ta nhận thấy chất đắng của vỏ có tác dụng đối với cơ tim tương tự như adrenalin. Streblosid có thể so sánh với digitoxin.
Trong y học cổ truyền Ấn Độ, người ta dùng nhánh cây con để làm bàn chải làm sạch răng và chữa chảy mủ lợi.
Theo y học hiện đại
Duối còn gọi là một vị thuốc dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân. Nhân dân thường dùng nhựa ruối dán lên hai bên thái dương chữa nhức đầu. Nhựa mủ của duối có tác dụng làm đông sữa. Cành và rễ thái mỏng sắc uống được dùng làm thuốc thông tiểu chữa bụng trướng.
Vỏ ruối ngậm chữa sâu răng, đau họng. Nhân dân Campuchia còn dùng rễ ruối phối hợp với nhiều vị thuốc khác chữa ho, chữa lao phổi. Ấn Độ dùng vỏ ruối sắc uống chữa sốt, đi ỉa lỏng, lỵ. Có thể dùng dưới dạng sấy vỏ khô, tán nhỏ mà uống.
Cả cây duối trừ rễ có tác dụng ức chế sự phát triển của carcinom dạng biểu bì của mũi - họng người trong nuôi cấy mô. Thử nghiệm lâm sàng ban đầu trên 296 bệnh nhân có bệnh giun chỉ phù bạch huyết, tiếp theo là việc sử dụng rộng rãi trên lâm sàng trên 5.000 bệnh nhân giun chỉ ở Ấn Độ ở những giai đoạn khác nhau của bệnh, thấy vỏ thân cây duối chữa khỏi và đỡ với tỷ lệ 90 - 100% bệnh giun chỉ ở mức độ bệnh khác nhau. Thuốc cũng có tác dụng làm hết nghẽn mạch bạch huyết do bệnh giun chỉ. Vỏ rễ có chứa glycosid có tác dụng trợ tim.
Nhân dân Campuchia còn dùng rễ duối phối hợp với nhiều vị thuốc khác chữa ho, lao phổi. Lá được dùng làm thuốc lợi sữa, bột nhão lá đắp vào chỗ sưng tấy, hạch sưng, và để làm ngừng sự thoát mồ hôi quá mức. Nước hãm lá có thể thay nước chè. Thuốc đắp từ rễ trị loét, sưng tấy và nhọt. Rễ tán bột uống trị lỵ, nước sắc rễ trị giang mai, nước sắc vỏ cây trị sốt, lỵ, tiêu chảy và sát trùng vết thương. Nhựa mủ có dụng làm săn và sát trùng, trị đau gót chân, bàn tay nứt nẻ, sưng tuyến và bôi thái dương để an thần trị đau dây thần kinh.
Nhiều bộ phận được dùng làm thuốc:
Lá duối: Chữa trâu bò đau bụng ỉa chảy và xoa bóp chữa bại liệt; còn dùng chữa nắng nóng. Lá sao vàng chữa băng huyết, kiết lỵ. Lá non giã đắp trị vết thương chảy máu (thêm ít vôi tôi).
Nhựa mủ duối dùng dán 2 bên thái dương chữa nhức đầu; cũng dùng chữa đinh sang, lở chốc.
Vỏ duối dùng chữa sâu răng, đau bụng, sốt, đi ỉa chảy, lỵ, trị được ho và lao phổi, phong thấp đau nhức, chó dữ cắn và đáp bó chữa gãy xương.
Cành và rễ thái mỏng sắc uống làm thuốc thông tiểu chữa bụng trướng. Vỏ rễ chữa đái đục, bí đái.
Hạt duối chữa chảy máu cam, trĩ và tiêu chảy. Dùng ngoài, bột nhão từ hạt trị bệnh bạch biến.