Phân bố:
Cây Ô đầu phân bố chủ yếu ở Bắc bán cầu, Ấn Độ, Trung Quốc. Tại Việt Nam, cây ô đầu là cây trồng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhập về và trồng ở Sa Pa (được ngành y tế nhập giống chính thức), hoặc do cộng đồng người Hoa sống ở huyện Quản Bạ và Đồng Văn (Hà Giang) tự đem từ bên kia biên giới về trồng.
Ngoài ra, cũng có tài liệu cho rằng Ô đầu mọc hoang ở Lào Cai, Hà Giang, Nghĩa Lộ (theo Võ Văn Chi, 1977). Thực tế, người ta phát hiện ô đầu mọc hoang nhiều tại thung lũng Tà Cố Y (Mù Cang Chải).
Ô đầu thích nghi ở vùng ôn đới ẩm, khí hậu mát mẻ của vùng nhiệt đới núi cao và ưa sáng, có thể chịu bóng. Cây có thể trồng và nhân giống từ hạt hoặc từ phụ tử.
Thu hoạch, chế biến:
Ô đầu rất độc, vì vậy phải chế biến cẩn thận trước khi dùng.
Diêm phụ
Diêm là muối, phụ là phụ tử, tức là phụ tử chế muối. Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, muối ăn, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 30 kg muối, 60 lít nước. Ngâm khoảng 10 ngày, trong thời gian đó cứ vớt ra phơi khô vào ban ngày và đêm ngâm nước. Thỉnh thoảng thêm magnesi clorua, muối ăn, nước để đảm bảo nồng độ ban đầu. Sau cùng, vớt ra và phơi nắng đến khi có muối trắng kết tinh bên ngoài củ, lúc này muối đã thấm vào giữa củ. Trước khi dùng, cắt mỏng phụ tử, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Hắc phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to trung bình, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 20 lít nước. Sau khi đun sôi 2 - 3 phút, lấy ra rửa sạch, thái mỏng rồi ngâm vào magesi clorua và nước. Tiếp theo thêm đường đỏ và dầu hạt cải, sao tẩm đến khi có màu nước chè đặc. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Bạch phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh nhỏ, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước ngâm vài ngày. Sau đó, đun tới chín giữa củ, bóc vỏ và thái mỏng. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.