Các nguyên nhân khác gây đi tiểu thường xuyên (suy tim hoặc bệnh thận) nên được đánh giá trước khi điều trị bằng solifenacin. Nếu bị nhiễm trùng đường tiết niệu, nên bắt đầu một liệu pháp kháng khuẩn thích hợp.
Solifenacin nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân:
Tắc nghẽn đường ra bàng quang có ý nghĩa lâm sàng có nguy cơ bí tiểu.
Rối loạn tắc nghẽn đường tiêu hóa.
Nguy cơ giảm nhu động đường tiêu hóa.
Suy thận nặng (độ thanh thải creatinin ≤ 30 ml/phút), và liều không được vượt quá 5 mg cho những bệnh nhân này.
Suy gan trung bình (điểm Child Pugh từ 7 đến 9), và liều không được vượt quá 5 mg cho những bệnh nhân này.
Sử dụng đồng thời chất ức chế CYP3A4 mạnh, ví dụ ketoconazole.
Thoát vị khe thực quản/trào ngược dạ dày thực quản và/hoặc những người đang dùng đồng thời các sản phẩm thuốc (chẳng hạn như bisphosphonates) có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng viêm thực quản.
Bệnh lý thần kinh tự động.
QT kéo dài và xoắn đỉnh đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ, chẳng hạn như hội chứng QT dài và hạ kali máu đã có từ trước.
Tính an toàn và hiệu quả vẫn chưa được thiết lập ở những bệnh nhân có nguyên nhân gây bệnh thần kinh cho tăng hoạt động cơ co bang quang.
Phù mạch ở mặt, môi, lưỡi và/hoặc thanh quản đã được báo cáo khi dùng solifenacin. Trong một số trường hợp, phù mạch xảy ra sau liều đầu tiên, tuy nhiên, các trường hợp đã được báo cáo là xảy ra vài giờ sau liều đầu tiên hoặc sau khi dùng nhiều liều. Phù mạch liên quan đến sưng đường thở trên và phản ứng phản vệ có thể đe dọa tính mạng. Phản ứng phản vệ đã được báo cáo ở một số bệnh nhân được điều trị bằng solifenacin. Ở những bệnh nhân xuất hiện phản ứng phản vệ, nên ngừng sử dụng solifenacin và thực hiện liệu pháp và/hoặc các biện pháp thích hợp.
Hiệu quả tối đa của solifenacin có thể được xác định sớm nhất sau 4 tuần.