Tam thất nam phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Lào và Việt Nam.
Ở Việt Nam, cây mọc hoang (ở Tây Nguyên) và được trồng rải rác trong nhân dân ở các tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ (như Hưng Yên, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Hòa Bình, Cao Bằng, Hà Tây và Hải Dương với diện tích không đáng kể) và một số tỉnh phía Nam (như Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng….)
Tam thất nam thường sống ở những nơi đất ẩm, có thể hơi chịu bóng. Cây sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện trồng xen ở vườn gia đình hay vườn thuốc nam của các trạm y tế xã. Hàng năm, phần trên mặt đất của cây tàn lụi vào mùa đông. Đến khoảng tháng 3 năm sau, hoa xuất hiện trước khi cây ra lá, quả ít gặp. Tam thất nam có tốc độ đẻ nhánh khỏe. Từ một củ con trồng ban đầu, sau một năm có thể tạo thành khóm lớn gồm khoảng 10 nhánh. Tuy nhiên, sau 2 – 3 năm không được thu hoạch, các củ cải (củ con trồng ban đầu) sẽ bị thối rữa.
Tam thất nam được trồng ven hàng rào, bờ ao, chân đồi, ven suối, khe đá, tán rừng nguyên sinh, rậm thường xanh, nhiệt đới, rải rác thành từng nhóm sinh trưởng trên đất ẩm giàu mùn. Cây mọc khỏe, sống nhiều năm, ít sâu bệnh, có thể trồng dưới bóng cây. Củ đẻ nhánh như gừng.
Cây được nhân giống bằng củ mầm. Thời vụ trồng vào tháng 2 đến tháng 3. Nếu trồng nhiều, người dân cần cày bừa và lên luống. Nếu trồng ít, người dân có thể bỏ hốc cách nhau 40 đến 50 cm. Mỗi hóc có thể trồng một mầm hoặc một đoạn củ dài mang nhiều mầm. Phân bón chủ yếu là phân chuồng, mùn, rác mục làm cho đất tơi xốp. Cây không cần chăm sóc nhiều. Củ có thể thu dần, củ già thu trước, củ non để lại cho già. Ở miền núi, mùa đông cây ngừng sinh trưởng.
Vào mùa đông – xuân, thu hái những củ già trước. Bỏ rễ con, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.