- Công dụng/Chỉ định
- CRESEMBA được chỉ định ở người lớn để điều trị:
Nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn.
Nhiễm nấm Mucorales ở bệnh nhân không thích hợp với amphotericin B.
Cần xem thêm hướng dẫn chính thức về việc sử dụng thích hợp các thuốc kháng nấm.
- Liều lượng và cách dùng
- CRESEMBA cũng được cung cấp dưới dạng viên nang cứng chứa 100 mg isavuconazole.
Liều tấn công được khuyến nghị là 2 viên uống (tương đương với 200 mg isavuconazole) mỗi 8 giờ trong 48 giờ đầu tiên (tổng cộng 6 lần sử dụng).
Liều duy trì được khuyến nghị là 2 viên uống (tương đương với 200 mg isavuconazole) ngày một lần, bắt đầu 12 đến 24 giờ sau liều tấn công cuối cùng.
Thời gian điều trị cần được quyết định theo đáp ứng lâm sàng.
Để điều trị dài hạn quá 6 tháng, cần phải cân nhắc cẩn thận cân bằng lợi ích/nguy cơ.
Chuyển sang truyền tĩnh mạch: CRESEMBA cũng được cung cấp dưới dạng bột pha dung dịch đậm đặc để pha dung dịch truyền có chứa 200 mg isavuconazole.
Trên cơ sở sinh khả dụng qua đường uống cao (98%), chuyển đổi giữa việc dùng qua tĩnh mạch và dùng qua đường uống là thích hợp khi có chı̉ định lâm sàng.
Người cao tuổI: Không cần điều chỉnh liều cho bệnh nhân cao tuổi; tuy nhiên, kinh nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân cao tuổi còn hạn chế.
Suy giảm chức năng thận: Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy giảm chức năng thận, bao gồm bệnh nhân suy thận thời kỳ cuối.
Suy giảm chức năng gan: Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy giảm chức năng gan nhẹ hoặc vừa (Child-Pugh loại A và B).
Isavuconazole chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân suy giảm chức năng gan nặng (Child-Pugh loại C).
Không khuyến nghị sử dụng ở những bệnh nhân này trừ khi lợi ích tiềm năng được cân nhắc là lớn hơn nguy cơ.
Bệnh nhân nhi: Tính hiệu quả và an toàn của CRESEMBA ở trẻ em dưới 18 tuổi chưa được thiết lập. Không có thông tin.
Cách dùng Viên nang CRESEMBA có thể dùng cùng hoặc không cùng với thức ăn.
Phải nuốt nguyên viên nang CRESEMBA. Không nhai, nghiền, hòa tan hay mở viên thuốc.
- Chống chỉ định
- Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ thành phần tá dược nào.
Dùng đồng thời với ketoconazole.
Dùng đồng thời với ritonavir liều cao (> 200 mg mỗi 12 giờ).
Dùng đồng thời với các thuốc cảm ứng CYP3A4/5 mạnh như là rifampicin, rifabutin, carbamazepine, barbiturat tác dụng kéo dài (ví dụ: phenobarbital), phenytoin và St. John’s wort hoặc với các thuốc cảm ứng CYP3A4/5 trung bình như là efavirenz, nafcillin và etravirine.
Bệnh nhân có hội chứng khoảng QT ngắn có tính gia đình.
- Thận trọng
- Quá mẫn: Cần thận trọng khi kê đơn isavuconazole cho bệnh nhân quá mẫn với các thuốc kháng nấm nhóm azole khác. Quá mẫn với isavuconazole có thể dẫn đến các phản ứng bất lợi bao gồm: hạ huyết áp, suy hô hấp, khó thở, ban đỏ nhiễm sắc do thuốc, ngứa và phát ban.
Phản ứng bất lợi nặng trên da: Các phản ứng bất lợi nặng trên da, chẳng hạn như hội chứng Stevens-Johnson, đã được báo cáo trong quá trình điều trị bằng thuốc kháng nấm nhóm azole. Nếu bệnh nhân gặp phải phản ứng bất lợi nặng trên da, cần ngưng dùng CRESEMBA.
Tim mạch: Rút ngắn khoảng QT. Chống chỉ định dùng isavuconazole ở bệnh nhân có hội chứng khoảng QT ngắn có tính gia đình. Trong một nghiên cứu QT ở đối tượng người khỏe mạnh, isavuconazole làm rút ngắn khoảng QTc có liên quan đến nồng độ. Với phác đồ liều 200 mg, chênh lệch giá trị trung bình theo phương pháp bình phương tối thiểu (Least Squares Mean - LSM) so với giả dược là 13,1 ms 2 giờ sau khi dùng thuốc [CI 90%: 17,1; 9,1 ms]. Tăng liều lên 600 mg cho kết quả chênh lệch LSM so với giả dược là 24,6 ms 2 giờ sau khi dùng thuốc [CI 90%: 28,7; 20,4 ms]. Phải thận trọng khi kê đơn isavuconazole cho bệnh nhân đang dùng các thuốc khác được biết là làm giảm khoảng QT, chẳng hạn như rufinamide.
Tăng transaminase gan hoặc viêm gan: Tăng transaminase gan đã được báo cáo trong các nghiên cứu lâm sàng. Các trường hợp tăng transaminase gan hiếm khi cần phải ngưng dùng isavuconazole. Cần cân nhắc theo dõi men gan, khi được chỉ định lâm sàng. Viêm gan đã được báo cáo với các thuốc kháng nấm nhóm azole bao gồm cả isavuconazole.
Suy giảm chức năng gan nặng: Isavuconazole chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân suy giảm chức năng gan nặng (Child-Pugh loại C).
Không khuyến nghị sử dụng ở những bệnh nhân này trừ khi lợi ích tiềm năng được cân nhắc là lớn hơn nguy cơ. Phải theo dõi cẩn thận khả năng nhiễm độc thuốc ở những bệnh nhân này Dùng đồng thời với các thuốc khác
Các thuốc ức chế CYP3A4/5: Chống chỉ định dùng ketoconazole (xem mục 4.3). Đối với thuốc ức chế CYP3A4 mạnh là lopinavir/ritonavir, đã quan sát thấy mức độ phơi nhiễm isavuconazole tăng gấp 2 lần. Đối với các thuốc ức chế CYP3A4 mạnh khác, có thể xảy ra ảnh hưởng ít rõ ràng hơn. Không cần điều chỉnh liều isavuconazole khi dùng đồng thời với thuốc ức chế CYP3A4/5 mạnh, tuy nhiên, cần phải thận trọng vì các phản ứng bất lợi của thuốc có thể tăng lên.
Các thuốc cảm ứng CYP3A4/5: Dùng đồng thời với thuốc cảm ứng CYP3A4/5 nhẹ như aprepitant, prednisone, và pioglitazone, có thể làm giảm nhẹ đến vừa nồng độ isavuconazole trong huyết tương; cần tránh dùng đồng thời với thuốc cảm ứng CYP3A4/5 nhẹ trừ khi lợi ích tiềm năng được cân nhắc là lớn hơn nguy cơ.
Các chất nền của CYP3A4/5 bao gồm các thuốc ức chế miễn dịch: Isavuconazole có thể được xem là một thuốc ức chế CYP3A4/5 trung bình, và mức độ phơi nhiễm toàn thân với các thuốc được chuyển hóa bởi CYP3A4 có thể tăng khi dùng đồng thời với isavuconazole. Dùng đồng thời isavuconazole với các chất nền của CYP3A4 như các thuốc ức chế miễn dịch tacrolimus, sirolimus hoặc ciclosporin có thể làm tăng mức độ phơi nhiễm toàn thân với những thuốc này. Có thể cần điều chỉnh liều và theo dõi thuốc điều trị thích hợp trong khi dùng đồng thời.
Các chất nền của CYP2B6: Isavuconazole là một thuốc cảm ứng CYP2B6. Mức độ phơi nhiễm toàn thân với các thuốc được chuyển hóa bởi CYP2B6 có thể giảm khi dùng đồng thời với isavuconazole. Do đó, phải thận trọng khi các chất nền của CYP2B6, đặc biệt là các thuốc có khoảng điều trị hẹp như cyclophosphamide, được dùng đồng thời với isavuconazole. Chống chỉ định sử dụng chất nền của CYP2B6 là efavirenz với isavuconazole vì efavirenz là một thuốc cảm ứng CYP3A4/5 trung bình.
Các chất nền của P-gp: Isavuconazole có thể làm tăng mức độ phơi nhiễm các thuốc là chất nền của P-gp. Có thể cần điều chỉnh liều của thuốc là chất nền của P-gp, đặc biệt là các thuốc có khoảng điều trị hẹp như digoxin, colchicine và dabigatran etexilate, khi dùng đồng thời với isavuconazole.
Các hạn chế của dữ liệu lâm sàng: Dữ liệu lâm sàng về isavuconazole trong điều trị nhiễm nấm Mucorales chỉ giới hạn ở một nghiên cứu lâm sàng tiến cứu không có đối chứng ở 37 bệnh nhân có bằng chứng hoặc có thể nhiễm nấm Mucorales đã dùng isavuconazole để điều trị ban đầu, hoặc do các phương pháp điều trị kháng nấm khác (chủ yếu là amphotericin B) không thích hợp.
Đối với các loài Mucorales cụ thể, có rất ít dữ liệu về hiệu quả lâm sàng, thường chỉ ở một hoặc hai bệnh nhân. Dữ liệu về độ nhạy của thuốc chỉ có ở một nhóm nhỏ các trường hợp. Những dữ liệu này cho biết rằng nồng độ của isavuconazole cần để ức chế in vitro rất khác nhau giữa các giống/loài trong bộ Mucorales, và thường cao hơn nồng độ cần để ức chế các loài Aspergillus. Cần lưu ý rằng không có nghiên cứu dò liều nào cho bệnh nhiễm nấm Mucorales, và bệnh nhân được dùng isavuconazole với liều giống như để điều trị nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn.
- Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú
- Không có dữ liệu từ việc sử dụng CRESEMBA ở phụ nữ mang thai.
Không được sử dụng CRESEMBA trong khi mang thai ngoại trừ ở bệnh nhân nhiễm nấm nặng hoặc có khả năng đe doạ tính mạng mà có thể sử dụng isavuconazole ở người đó nếu lợi ích dự kiến lớn hơn nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi.
Không khuyến nghị sử dụng CRESEMBA cho phụ nữ có khả năng sinh con không sử dụng biện pháp tránh thaI
- Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
- Isavuconazole có khả năng ảnh hưởng trung bình lên khả năng lái xe và sử dụng máy móc. Bệnh nhân cần tránh lái xe hoặc vận hành máy móc nếu gặp phải các triệu chứng của tình trạng lú lẫn, ngủ gà, ngất, và/hoặc chóng mặt.
- Tương tác thuốc
- Khả năng ảnh hưởng của các thuốc khác đến dược động học của isavuconazole
Isavuconazole là một chất nền của CYP3A4 và CYP3A5. Dùng đồng thời với các thuốc ức chế CYP3A4 và/hoặc CYP3A5 có thể làm tăng nồng độ isavuconazole trong huyết tương. Dùng đồng thời các thuốc cảm ứng CYP3A4 và/hoặc CYP3A5 có thể làm giảm nồng độ isavuconazole trong huyết tương.
Các thuốc ức chế CYP3A4/5
Chống chỉ định dùng đồng thời isavuconazole với thuốc ức chế CYP3A4/5 mạnh là ketoconazole, vì thuốc này có thể làm tăng đáng kể nồng độ isavuconazole trong huyết tương.
Đối với thuốc ức chế CYP3A4 mạnh là lopinavir/ritonavir, đã quan sát thấy mức độ phơi nhiễm isavuconazole tăng gấp 2 lần. Đối với các thuốc ức chế CYP3A4 mạnh khác, như clarithromycin, indinavir và saquinavir, có thể xảy ra ảnh hưởng ít rõ ràng hơn, căn cứ trên hoạt lực tương đối của thuốc. Không cần điều chỉnh liều isavuconazole khi dùng đồng thời với thuốc ức chế CYP3A4/5 mạnh, tuy nhiên, cần phải thận trọng vì các phản ứng bất lợi của thuốc có thể tăng lên.
Không cần điều chỉnh liều đối với các thuốc ức chế CYP3A4/5 nhẹ.
Các thuốc cảm ứng CYP3A4/5
Chống chỉ định dùng đồng thời isavuconazole với các thuốc cảm ứng CYP3A4/5 mạnh như rifampicin, rifabutin, carbamazepine, barbiturat tác dụng kéo dài (ví dụ: phenobarbital), phenytoin và St. John’s wort, hoặc với các thuốc cảm ứng CYP3A4/5 trung bình như là efavirenz, nafcillin và etravirine, vì các thuốc này có thể làm giảm đáng kể nồng độ isavuconazole trong huyết tương.
Dùng đồng thời với thuốc cảm ứng CYP3A4/5 nhẹ như aprepitant, prednisone, và pioglitazone, có thể làm giảm nhẹ đến vừa nồng độ isavuconazole trong huyết tương; cần tránh dùng đồng thời với thuốc cảm ứng CYP3A4/5 nhẹ trừ khi lợi ích tiềm năng được cân nhắc là lớn hơn nguy cơ.
Chống chỉ định dùng đồng thời với ritonavir liều cao (> 200 mg, 2 lần một ngày), vì ritonavir liều cao có thể cảm ứng CYP3A4/5 và làm giảm nồng độ isavuconazole trong huyết tương.
Khả năng isavuconazole ảnh hưởng đến mức độ phơi nhiễm các thuốc khác
Các thuốc được chuyển hóa bởi CYP3A4/5
Isavuconazole là một thuốc ức chế CYP3A4/5 trung bình; dùng đồng thời isavuconazole với các thuốc là chất nền của CYP3A4/5 có thể làm tăng nồng độ của những thuốc này trong huyết tương.
Các thuốc được chuyển hóa bởi CYP2B6
Isavuconazole là một thuốc cảm ứng CYP2B6 nhẹ; dùng đồng thời isavuconazole có thể làm giảm nồng độ các thuốc là chất nền của CYP2B6 trong huyết tương.
Các thuốc được vận chuyển bởi P-gp trong ruột
Isavuconazole là một thuốc ức chế P-glycoprotein (P-gp) nhẹ; dùng đồng thời với isavuconazole có thể làm tăng nồng độ các thuốc là chất nền của P-gp trong huyết tương.
Các thuốc được vận chuyển bởi BCRP
Isavuconazole là một thuốc ức chế BCRP in vitro, và do đó, nồng độ các thuốc là chất nền của BCRP trong huyết tương có thể tăng lên. Phải thận trọng khi dùng isavuconazole đồng thời với các chất nền của BCRP.
Các thuốc được bài tiết ở thận thông qua protein vận chuyển
Isavuconazole là một thuốc ức chế nhẹ chất vận chuyển cation hữu cơ 2 (Organic Cation Transporter 2 - OCT2). Dùng đồng thời isavuconazole với các thuốc là chất nền của OCT2 có thể làm tăng nồng độ của những thuốc này trong huyết tương.
Các chất nền của uridine diphosphate-glucuronosyltransferase (UGT)
Isavuconazole là một thuốc ức chế nhẹ UGT. Dùng đồng thời isavuconazole với các thuốc là chất nền của UGT có thể làm tăng nhẹ nồng độ của những thuốc này trong huyết tương.
- Thành phần
- Thành phần hoạt chất: Mỗi viên nang có chứa 100 mg isavuconazole (dưới dạng 186,3 mg isavuconazonium sulfate).
Thành phần tá dược:
Thành phần của viên nang: magnesi citrate (khan), cellulose vi tinh thể, bột talc, silica, keo khan, acid stearic.
Vỏ nang: hypromellose, nước tinh khiết, oxid sắt đỏ (chỉ ở thân viên nang), titan dioxid , gôm gellan, kali axetat, dinatri edetat, natri laurylsulfat, mực in (10A2 Black) chứa: shellac, propylene glycol, dung dịch amoniac đậm đặc, kali hydroxid, oxid sắt đen.
- Dược lý
- Nhóm dược lý: Thuốc kháng nấm dùng toàn thân, dẫn xuất triazole, mã ATC: J02AC05.
Cơ chế tác dụng
Isavuconazole là phần phân tử có hoạt tı́nh được hình thành sau khi dùng isavuconazonium sulfate qua đường uống hoặc qua tĩnh mạch.
Isavuconazole thể hiện tác dụng kháng nấm bằng cách ngăn chặn sự tổng hợp ergosterol, một thành phần chính của màng tế bào nấm, thông qua ức chế enzym phụ thuộc cytochrome P-450 lanosterol 14-alpha-demethylase, chịu trách nhiệm chuyển đổi lanosterol thành ergosterol. Điều này dẫn đến sự tích lũy các tiền chất sterol đã methyl hóa và cạn kiệt ergosterol bên trong màng tế bào, từ đó làm suy yếu cấu trúc và chức năng của màng tế bào nấm.
Vi sinh
Trong các mô hình động vật bị nhiễm nấm Aspergillus lan tỏa và ở phổi, thông số dược lực học
(Pharmacodynamic, PD) quan trọng trong tính hiệu quả là mức độ phơi nhiễm chia cho nồng độ ức chế tối thiểu (Minimum Inhibitory Concentration - MIC) (AUC/MIC).
Không thể thiết lập mối tương quan rõ ràng giữa MIC in vitro và đáp ứng lâm sàng đối với các loài khác nhau (Aspergillus và Mucorales)
Nồng độ của isavuconazole cần để ức chế các loài Aspergillus và các giống/loài trong bộ Mucorales in vitro rất khác nhau. Nói chung, nồng độ isavuconazole cần để ức chế Mucorales cao hơn nồng độ cần để ức chế phần lớn các loài Aspergillus.
Hiệu quả lâm sàng đã được chứng minh đối với các loài Aspergillus sau: Aspergillus fumigatus, A. flavus, A. niger, và A. terreus (xem thêm dưới đây).
(Các) cơ chế kháng thuốc
Hiện tượng giảm độ nhạy với các thuốc kháng nấm triazole đã thấy có liên quan đến các đột biến trong các gen cyp51A và cyp51B của nấm mã hóa protein đích là lanosterol 14-alpha-demethylase tham gia vào quá trình sinh tổng hợp ergosterol. Các chủng nấm giảm độ nhạy in vitro với isavuconazole đã được báo cáo, và không thể loại trừ khả năng kháng chéo với voriconazole và các thuốc kháng nấm nhóm triazole khác.
Điểm gãy
Điểm gãy MIC EUCAST đã được xác định cho các loài sau (S nhạy; R kháng):
Aspergillus fumigatus: S ≤ 1 mg/L, R > 1 mg/L.
Aspergillus nidulans: S ≤ 0,25 mg/L, R > 0,25 mg/L.
Aspergillus terreus: S ≤ 1 mg/L, R > 1 mg/L.
Hiện không đủ dữ liệu để thiết lập điểm gãy lâm sàng cho các loài Aspergillus.
Tính hiệu quả và tính an toàn lâm sàng
Điều trị nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn
Tính an toàn và hiệu quả của isavuconazole trong điều trị bệnh nhân bị nhiễm nấm xâm lấn đã được đánh giá trong một nghiên cứu lâm sàng mù đôi, có đối chứng với thuốc thật ở 516 bệnh nhân bị bệnh nấm xâm lấn do các loài Aspergillus hoặc nấm sợi khác gây ra. Trong nhóm phân tích theo phân bố ngẫu nhiên ban đầu (ITT), 258 bệnh nhân dùng isavuconazole và 258 bệnh nhân dùng voriconazole.
Isavuconazole được dùng qua tĩnh mạch (tương đương với 200 mg isavuconazole) mỗi 8 giờ trong 48 giờ đầu tiên, sau đó là một liều mỗi ngày qua tĩnh mạch hoặc qua đường uống (tương đương với 200 mg isavuconazole). Thời gian điều trị tối đa được xác định theo phác đồ là 84 ngày. Thời gian điều trị trung vị là 45 ngày.
Đáp ứng tổng thể ở cuối quá trình điều trị (End-Of-Treatment - EOT) trong quần thể myITT (các bệnh nhân có bằng chứng và có thể nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn dựa trên nghiên cứu tế bào, nghiên cứu mô, nuôi cấy hoặc xét nghiệm galactomannan) đã được đánh giá bởi một Ủy ban đánh giá dữ liệu độc lập không biết về nghiên cứu. Quần thể myITT bao gồm 123 bệnh nhân dùng isavuconazole và 108 bệnh nhân dùng voriconazole. Đáp ứng tổng thể trong quần thể này là n = 43 (35%) đối với isavuconazole và n = 42 (38,9%) đối với voriconazole. Chênh lệch điều trị đã điều chỉnh (voriconazole−isavuconazole) là 4,0% (khoảng tin cậy 95%: -7,9; 15,9).
Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân ở Ngày 42 trong quần thể này là 18,7% đối với isavuconazole và 22,2% đối với voriconazole. Chênh lệch điều trị đã điều chỉnh (isavuconazole-voriconazole) là -2,7% (khoảng tin cậy 95%: -12,9; 7,5).
Điều trị nhiễm nấm Mucorales
Trong một nghiên cứu nhãn mở, không có đối chứng, 37 bệnh nhân có bằng chứng hoặc có thể nhiễm nấm Mucorales đã dùng isavuconazole với cùng phác đồ liều giống như phác đồ dùng để điều trị nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn. Thời gian điều trị trung vị là 84 ngày cho toàn bộ quần thể bệnh nhân nhiễm nấm Mucorales, và 102 ngày cho 21 bệnh nhân chưa từng được điều trị nhiễm nấm Mucorales trước đó. Đối với các bệnh nhân có bằng chứng hoặc có thể nhiễm nấm Mucorales như được xác định bởi Ủy ban đánh giá dữ liệu (Data Review Committee - DRC) độc lập, tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân tại Ngày 84 là 43,2% (16/37) với toàn thể quần thể bệnh nhân, 42,9% (9/21) với những bệnh nhân nhiễm nấm Mucorales dùng isavuconazole làm biện pháp điều trị ban đầu, và 43,8% (7/16) với những bệnh nhân nhiễm nấm Mucorales dùng isavuconazole là người đã bị kháng thuốc, không dung nạp liệu pháp kháng nấm trước đó (chủ yếu là các phương pháp điều trị sử dụng amphotericin B). Tỷ lệ thành công tổng thể theo đánh giá của DRC vào EOT là 11/35 (31,4%), với 5 bệnh nhân được xem là khỏi hoàn toàn và 6 bệnh nhân khỏi một phần. Đã quan sát thấy đáp ứng ổn định ở thêm 10/35 bệnh nhân (28,6%). Ở 9 bệnh nhân nhiễm nấm Mucorales do các loài Rhizopus, 4 bệnh nhân biểu hiện đáp ứng thuận lợi cho isavuconazole. Ở 5 bệnh nhân nhiễm nấm Mucorales do các loài Rhizomucor, không quan sát thấy đáp ứng thuận lợi. Có rất ít kinh nghiệm lâm sàng ở các loài khác (các loài Lichtheimia n = 2, các loài Cunninghamella n = 1, Actinomucor elegans n = 1).
- Dược động học (Tác động của cơ thể với thuốc)
Isavuconazonium sulfate là một tiền dược tan trong nước có thể dùng dưới dạng truyền tĩnh mạch hoặc uống dưới dạng viên nang cứng. Sau khi dùng thuốc, isavuconazonium sulfate nhanh chóng bị thủy phân bởi các esterase trong huyết tương thành phần phân tử có hoạt tı́nh là isavuconazole; nồng độ trong huyết tương của tiền dược rất thấp, và chỉ phát hiện được trong một thời gian ngắn sau khi dùng thuốc qua tĩnh mạch.
Hấp thu
Sau khi dùng CRESEMBA qua đường uống ở đối tượng khoẻ mạnh, phần phân tử có hoạt tı́nh là isavuconazole được hấp thu và đạt nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) khoảng 2-3 giờ sau khi dùng liều đơn
- Quá liều
- Triệu chứng: Các triệu chứng được báo cáo thường xuyên hơn ở các liều isavuconazole cao hơn liều điều trị (tương đương với isavuconazole 600 mg/ngày) được đánh giá trong một nghiên cứu QT so với ở nhóm liều điều trị (tương đương với liều isavuconazole 200 mg/ngày) bao gồm: đau đầu; chóng mặt, dị cảm, ngủ gà, rối loạn chú ý, rối loạn vị giác, khô miệng, tiêu chảy, giảm xúc giác miệng, nôn ói, nóng bừng mặt, lo âu, bồn chồn, đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, sợ ánh sáng và đau khớp.
Xử trí quá liềU: Isavuconazole không bị loại bỏ bằng cách thẩm tách máu. Không có thuốc giải độc đặc hiệu cho. isavuconazole. Trong trường hợp dùng quá liều, nên tiến hành điều trị hỗ trợ.
- Bảo quản
- Bảo quản ở nhiệt độ không quá 30 độ C, trong bao bì gốc để tránh ẩm.
- Hạn dùng
- 30 tháng kể từ ngày sản xuất.
- Phân loại sản phẩm
- Rx