Tin tức - Hoạt chất
Tin tức - Hoạt chất
Dược sĩ tư vấn 24/7
ĐẶT TƯ VẤN
Acyclovir là một loại thuốc kháng virus. Nó được dùng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do một số loại virus gây ra, như virus herpes simplex, virus thủy đậu-zona và virus varicella-zoster. Acyclovir có thể giúp làm lành nhanh các vết loét, giảm đau và ngăn ngừa sự lây lan của virus. Tuy nhiên, acyclovir không thể tiêu diệt hoàn toàn virus hoặc chữa khỏi bệnh dị ứng. Acyclovir có thể được uống qua đường miệng, bôi lên da hoặc tiêm vào tĩnh mạch.
Cùng Medigo tìm hiểu chi tiết về dược lý, tác dụng, liều lượng, cách dùng, chống chỉ định, thận trọng và lưu ý khi dùng thuốc Acyclovir trong nội dung bên dưới.
Tên thuốc gốc (Hoạt chất): Aciclovir (Acyclovir).
Loại thuốc: Thuốc chống virus
Dạng thuốc và hàm lượng:
Acyclovir (acyclo guanosine) là một purin nucleoside tổng hợp, có tác dụng chống virus Herpes simplex và Varicella zoster. Để có tác dụng, acyclovir phải được phosphoryl hóa thành dạng có hoạt tính là acyclovir triphosphat. Đầu tiên, acyclovir được chuyển thành acyclovir monophosphat nhờ enzym của virus là thymidine kinase, sau đó chuyển tiếp thành acyclovir diphosphat nhờ enzym của tế bào là guanylate kinase và cuối cùng thành acyclovir triphosphat bởi một số enzym khác của tế bào (như phosphoglycerat kinase, pyruvate kinase, phospho-enolpyruvat carboxykinase). Aciclovir triphosphat ức chế sự tổng hợp ADN và sự nhân lên của virus bằng cách ức chế enzym ADN polymerase cũng như sự gắn kết vào ADN của virus, mà không ảnh hưởng gì đến chuyển hóa của tế bào bình thường. Trong tế bào không nhiễm virus Herpes, in vitro, acyclovir chỉ được các enzym tế bào (vật chủ) phosphoryl hóa với lượng tối thiểu. Aciclovir cũng được chuyển đổi thành acyclovir triphosphat bằng một số cơ chế khác vì thuốc có tác dụng đối với một số virus không có thymidine kinase (thí dụ virus Epstein-Barr, Cytomegalovirus). Các nghiên cứu in vitro cho thấy acyclovir triphosphat được sản xuất ra ở nồng độ thấp thông qua các enzym phosphoryl hóa chưa được xác định của tế bào bị nhiễm Epstein Barr và Cytomegalovirus.
Hoạt tính kháng virus Epstein-Barr của acyclovir có thể do ADN polymerase của virus tăng nhạy cảm bị ức chế với nồng độ thấp của acyclovir triphosphat (được tạo ra do enzym tế bào phosphoryl hóa). Hoạt tính kháng Cytomegalovirus ở người có thể do ức chế tổng hợp polypeptide đặc hiệu của virus; ức chế này đòi hỏi nồng độ cao acyclovir hoặc acyclovir triphosphat in vitro.
Cơ chế tác dụng chống lại các virus nhạy cảm khác như Epstein Barr và Cytomegalovirus vẫn chưa được rõ, cần nghiên cứu thêm. Tác dụng của acyclovir mạnh nhất trên virus Herpes simplex type 1 (HSV-1) và kém hơn ở virus Herpes simplex typ 2 (HSV-2), virus Varicella zoster (VZV), tác dụng yếu nhất trên Epstein Barr và Cytomegalovirus (CMV). Aciclovir không có tác dụng chống lại các virus tiềm ẩn, nhưng có một vài bằng chứng cho thấy thuốc ức chế virus Herpes simplex tiềm ẩn ở giai đoạn đầu tái hoạt động. Kháng thuốc: In vitro và in vivo, virus Herpes simplex kháng acyclovir tăng lên, do xuất hiện thể đột biến thiếu hụt thymidine kinase của virus, là enzym cần thiết để acyclovir chuyển thành dạng có hoạt tính. Cũng có cơ chế kháng thuốc khác là do sự thay đổi đặc tính của thymidine kinase hay giảm nhạy cảm với ADN polymerase của virus. Kháng acyclovir do thiếu hụt thymidine kinase có thể gây kháng chéo với các thuốc kháng virus khác cũng được phosphoryl hóa bởi enzym này, như brivudin, idoxuridin và ganciclovir.
Virus kháng thuốc trở thành một vấn đề đối với người bệnh suy giảm miễn dịch. Đặc biệt người bệnh AIDS hay bị nhiễm virus Herpes simplex kháng acyclovir ở da, niêm mạc.
Aciclovir hấp thu kém qua đường uống. Sinh khả dụng đường uống khoảng 10 - 20%. Thức ăn không làm ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc. Aciclovir phân bố rộng trong dịch cơ thể và các cơ quan như: Não, thận, phổi, ruột, gan, lách, cơ, tử cung, niêm mạc và dịch âm đạo, nước mắt, thủy dịch, tinh dịch, dịch não tủy. Sau khi tiêm tĩnh mạch dạng muối natri của acyclovir, nồng độ thuốc trong dịch não tủy đạt được khoảng 50% nồng độ thuốc trong huyết tương. Liên kết với protein thấp (9 - 33%). Thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết thanh sau khi uống từ 1,5 - 2 giờ.
Ở người bệnh chức năng thận bình thường, nửa đời thải trừ khoảng 2 - 3 giờ; ở người bệnh suy thận mạn trị số này tăng và có thể đạt tới 19,5 giờ ở bệnh nhân vô niệu. Trong thời gian thẩm phân máu, nửa đời thải trừ giảm xuống còn 5,7 giờ và khoảng 60% liều acyclovir được đào thải trong quá trình thẩm phân.
Probenecid làm tăng nửa đời và AUC của acyclovir.
Aciclovir qua được hàng rào nhau thai và phân bố được vào sữa mẹ với nồng độ gấp 3 lần trong huyết thanh mẹ. Thuốc cũng được chuyển hóa một phần qua gan thành 9-carboxymethyl methyl guanin (CMMG) và một lượng nhỏ 8-hydroxy-9-(2-hydroxyethoxymethyl) guanin.
Aciclovir được thải trừ chủ yếu qua nước tiểu dưới dạng không đổi qua lọc cầu thận và bài tiết ống thận. Khoảng 2% tổng liều thải trừ qua phân. Phần lớn liều tĩnh mạch đơn được thải trừ qua nước tiểu dưới dạng không đổi trong vòng 24 giờ. Ở người lớn có chức năng thận bình thường, khoảng 30 - 90% liều tĩnh mạch đơn thải trừ qua nước tiểu dưới dạng không đổi trong vòng 72 giờ, xấp xỉ 8 - 14% và dưới 0,2% thải trừ qua nước tiểu ở dạng CMMG và 8-hydroxy-9-(2- hydroxyethoxy methyl) guanine (tương ứng). Aciclovir được thải khi thẩm phân máu.
Aciclovir thường được hấp thu rất ít khi bôi trên da lành, nhưng có thể tăng lên khi thay đổi công thức bào chế. Aciclovir dùng dưới dạng thuốc mỡ tra mắt 3% đạt được nồng độ tương đối cao trong thủy dịch nhưng lượng hấp thu vào máu không đáng kể.
Thuốc Acyclovir được chỉ định điều trị nhiễm virus Herpes simplex (typ 1 và 2) lần đầu và tái phát ở niêm mạc - da (viêm miệng - lợi, viêm bộ phận sinh dục), viêm não - màng não, ở mắt (viêm giác mạc).
Dự phòng nhiễm HSV ở niêm mạc - da bị tái phát ít nhất 6 lần/năm, ở mắt (viêm giác mạc tái phát sau 2 lần/năm) hoặc trường hợp phải phẫu thuật ở mắt.
Nhiễm virus Varicella Zoster:
Chống chỉ định dùng acyclovir cho người bệnh mẫn cảm với thuốc.
Thận trọng với người suy thận, liều dùng phải điều chỉnh theo độ thanh thải creatinin. Tiêm truyền tĩnh mạch chậm, với thời gian ít nhất 1 giờ để tránh kết tủa acyclovir trong thận. Tránh tiêm nhanh hoặc tiêm với một lượng lớn. Cần cho đủ nước. Nguy cơ suy thận tăng lên, nếu dùng đồng thời với các thuốc độc với thận.
Điều trị tiêm truyền tĩnh mạch liều cao có thể gây tăng creatinin huyết thanh có hồi phục, đặc biệt với người bệnh mất nước, dễ làm tăng kết tủa acyclovir trong ống thận.
Tiêm tĩnh mạch acyclovir có thể gây các biểu hiện bệnh não. Phải thận trọng khi tiêm cho người có bệnh về hệ thần kinh, gan, thận, rối loạn điện giải, trạng thái thiếu oxygen. Phải thận trọng khi dùng cho người đã có phản ứng thần kinh khi dùng các thuốc độc cho tế bào hoặc đã tiêm methotrexate vào ống tủy hoặc interferon.
Theo nghiên cứu với hơn 1.000 phụ nữ được điều trị một cách có hệ thống với acyclovir trong thời kỳ mang thai, 756 người trong số họ trong lần đầu tiên khoảng ba tháng; không có bằng chứng về nguy cơ gây độc cho phôi hoặc bào thai (Stone 2004). Một nghiên cứu của Cơ quan đăng ký Đan Mạch với 1.561 phụ nữ có đơn thuốc ở ba tháng đầu, cho thấy nguy cơ không tăng sau khi dùng acyclovir (Pasternak 2010). Mặc dù những nghiên cứu này có một số điểm yếu về phương pháp, nhưng kinh nghiệm cho thấy nguy cơ của acyclovir trong thai kỳ là không đáng kể.
FDA Hoa Kỳ loại thai kỳ B: Các nghiên cứu về sinh sản trên động vật không chứng minh được nguy cơ đối với thai nhi và không có nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát tốt ở phụ nữ mang thai.
Chỉ nên dùng acyclovir cho người mang thai khi lợi ích điều trị hơn hẳn rủi ro có thể xảy ra với bào thai.
Acyclovir được bài tiết qua sữa mẹ khi dùng đường uống, tuy nhiên chưa có ghi nhận về tác dụng có hại cho trẻ bú mẹ khi người mẹ đang dùng acyclovir. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nồng độ trong sữa cao hơn trong huyết tương (Bork 1995, Taddio 1994, Meyer 1988). Bork (2000) đã chứng minh rằng sự tích lũy acyclovir vào sữa mẹ là do khuếch tán thụ động và không vận chuyển tích cực là cần thiết, như suy đoán ban đầu. Nếu kết quả của các nghiên cứu được tóm tắt, sau khi tiêm tĩnh mạch ở mức 900 mg, nồng độ acyclovir trong sữa đạt tối đa là 7,3 mg/L. Với lượng uống 800 mg, nồng độ tối đa đo được trong sữa là 5,8 mg/L. Với nồng độ này, liều tương đối qua sữa mẹ tối đa là 7%. Vì acyclovir uống chỉ có khoảng 20% hấp thụ, em bé sẽ nhận được khoảng 1% lượng khuyến cáo dành cho trẻ sơ sinh với liều lượng qua sữa mẹ. Các triệu chứng độc hại chưa được quan sát thấy và dường như khó xảy ra, vì acyclovir được sử dụng ở trẻ sơ sinh hầu hết có tình trạng tốt. Nên thận trọng khi dùng thuốc đối với người cho con bú.
Các ADR thường hiếm gặp sau khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch acyclovir:
Ít gặp, 1/1 000 < ADR < 1/100
Tại chỗ tiêm: Thường do thuốc tiêm ra ngoài tĩnh mạch, gây viêm và hoại tử mô.
Hiếm gặp, ADR < 1/1 000
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Các ADR thường hiếm xảy ra và nhẹ, tự hết. Nếu các triệu chứng nặng (lú lẫn, hôn mê ở người suy thận), phải ngừng thuốc ngay. Diễn biến thường tốt sau khi ngừng thuốc, ít khi phải thẩm phân máu
Điều trị bằng acyclovir phải được bắt đầu càng sớm càng tốt khi có dấu hiệu và triệu chứng của bệnh.
Uống: Liều uống thay đổi tùy theo chỉ định:
Điều trị nhiễm Herpes simplex tiên phát bao gồm cả Herpes sinh dục: Liều thông thường uống 200 mg/lần ngày uống 5 lần, cách nhau 4 giờ. Uống trong 5 - 10 ngày.
Nếu suy giảm miễn dịch nặng hoặc hấp thu kém: 400mg/lần ngày 5 lần, dùng trong 5 ngày.
Loại bỏ tái phát ở người có khả năng miễn dịch (ít nhất có 6 lần tái phát/năm): Uống 800mg/ngày chia làm 2 hoặc 4 lần. Liệu pháp điều trị phải ngừng sau 6 - 12 tháng để đánh giá kết quả. Nếu tái phát thưa (< 6 lần/năm), chỉ nên điều trị đợt tái phát: 200 mg/lần, ngày uống 5 lần, uống trong 5 ngày. Bắt đầu uống khi có triệu chứng tiến triển.
Dự phòng HSV ở người suy giảm miễn dịch: 200 - 400 mg/lần, uống 4 lần mỗi ngày.
Nhiễm HSV ở mắt:
Thủy đậu: 800 mg/lần, 4 hoặc 5 lần/ngày. Uống trong 5 - 7 ngày.
Zona: Người lớn, 800 mg/lần, 5 lần/ngày, uống trong 5 - 10 ngày. Trẻ em: 2 tuổi hoặc trên 2 tuổi: Liều như người lớn. Dưới 2 tuổi: dùng 1/2 liều người lớn.
Thủy đậu:
Tiêm truyền tĩnh mạch: Dưới dạng muối natri trong 1 giờ.
Người lớn:
Trẻ em:
Trẻ sơ sinh cho tới 3 tháng tuổi:
Thuốc mỡ acyclovir:
Thuốc mỡ tra mắt: Ngày bôi 5 lần (tiếp tục ít nhất 3 ngày sau khi đã dùng liều điều trị).
Với người bệnh suy thận:
Liều thông thường (ml/phút) | Độ thanh thải creatinin | Liều điều chỉnh |
200 mg, cách nhau 4 giờ/lần, 5 lần/ngày | > 10 0 - 10 | Không cần điều chỉnh 200 mg, cách nhau 12 giờ |
400 mg, cách nhau 12 giờ/lần | > 10 0 - 10 | Không cần điều chỉnh 200 mg, cách nhau 12 giờ |
800 mg, cách nhau 4 giờ/lần, 5 lần/ngày | > 25 10 - 25 0 - 10 | Không cần điều chỉnh liều 800 mg, cách nhau 8 giờ/lần 800 mg, cách nhau 12 giờ/lần |
Uống: Liều và số lần uống phải thay đổi tùy theo mức độ tổn thương thận.
Điều chỉnh liều uống ở người suy thận:
Độ thanh thải creatinin (ml/phút) | Cách dùng |
> 80 | Không điều chỉnh liều |
50 - 80 | 200 - 800 mg, cách nhau 6 - 8 giờ |
25 - 50 | 200 - 800 mg, cách nhau 8 - 12 giờ |
10 - 25 | 200 - 800 mg, cách nhau 12 - 24 giờ |
< 10 | 200 - 400 mg, cách nhau 24 giờ |
Tiêm truyền tĩnh mạch:
Độ thanh thải creatinin (ml/phút) | Cách dùng |
25 - 50 | 5 - 10 mg/kg, cách nhau 12 giờ |
10 - 25 | 5 - 10 mg/kg, cách nhau 24 giờ |
< 10 | 2,5 - 5 mg/kg, cách nhau 24 giờ |
Độ thanh thải creatinin (ml/phút) | Cách dùng |
> 50 | Không điều chỉnh liều |
10 - 50 | 5 mg/kg, cách nhau 12 - 24 giờ |
< 10 | 2,5 mg/kg, cách nhau 24 giờ |
Pha dung dịch tiêm truyền:
Ở người suy thận khi dùng acyclovir tiêm tĩnh mạch liều quá cao đã thấy ý thức thay đổi từ lú lẫn, ảo giác đến hôn mê. Tiến triển thường tốt sau khi ngừng thuốc và làm thẩm tách máu. Tiêm tĩnh mạch liều duy nhất 80 mg/kg chưa gây ra triệu chứng quá liều.
Thẩm phân máu người bệnh cho đến khi chức năng thận phục hồi, ngừng thuốc, cho truyền nước và điện giải.
Tương tác thuốc - thuốc:
Probenecid làm tăng nửa đời trong huyết tương và AUC của acyclovir, làm giảm thải trừ qua nước tiểu và độ thanh thải của acyclovir.
Dùng đồng thời zidovudin và acyclovir có thể gây trạng thái ngủ lịm và lơ mơ. Cần theo dõi sát người bệnh khi phối hợp.
Interferon làm tăng tác dụng chống virus HSV-1 in vitro của acyclovir. Tuy nhiên tương tác trên lâm sàng vẫn chưa rõ.
Amphotericin B và ketoconazol làm tăng hiệu lực chống virus của acyclovir.
Dùng acyclovir tiêm phải thận trọng với người bệnh đã dùng methotrexat vào ống tủy sống.
Tương tác thuốc - bệnh:
Acyclovir ⇔ Bệnh suy giảm chức năng thận (Nguy cơ tiềm ẩn lớn, độ tin cậy cao): Acyclovir chủ yếu được đào thải qua thận. Bệnh nhân suy thận có thể có nguy cơ bị nhiễm độc thần kinh và thận cao hơn (bao gồm suy giảm chức năng thận, tổn thương ống thận và suy thận cấp) do acyclovir giảm độ thanh thải thuốc. Nên thận trọng khi điều trị bằng acyclovir ở bệnh nhân suy thận. Khuyến cáo điều chỉnh liều ở bệnh nhân rối loạn chức năng thận từ trung bình đến nặng.
Acyclovir ⇔ Khử nước (Nguy cơ tiềm tàng vừa phải, độ tin cậy cao): Các tinh thể acyclovir có thể kết tủa trong ống thận, đặc biệt khi thuốc được tiêm nhanh vào tĩnh mạch. Chức năng thận bất thường có thể xảy ra, thường có thể hồi phục nhưng hiếm khi tiến triển thành tổn thương ống thận và suy thận cấp. Những bệnh nhân bị mất nước có thể tăng nguy cơ nhiễm độc thận khi sử dụng acyclovir. Acyclovir tiêm tĩnh mạch nên được dùng trong khoảng thời gian một giờ kèm theo bù nước đầy đủ. Cần theo dõi lưu lượng nước tiểu, đặc biệt là trong vòng hai giờ đầu sau khi truyền khi nồng độ nước tiểu đạt mức tối đa. Lượng nước tiểu được khuyến nghị tối thiểu là 500 mL cho mỗi gam thuốc truyền vào.
Acyclovir ⇔ chạy thận nhân tạo (Nguy cơ tiềm tàng vừa phải, độ tin cậy cao): Acyclovir được loại bỏ đáng kể bằng thẩm tách máu. Nồng độ acyclovir trong huyết tương đã được chứng minh là giảm 60% sau 6 giờ lọc máu. Acyclovir nên được dùng sau khi chạy thận nhân tạo. Nếu không, có thể dùng một liều bổ sung sau mỗi lần chạy thận nhân tạo.
Acyclovir ⇔ độc tính lên hệ thần kinh (Nguy cơ tiềm tàng vừa phải, độ tin cậy thấp. Điều kiện áp dụng: Bệnh gan, Bất thường điện giải, Tăng natri máu, Mất cân bằng photphat, Mất cân bằng magie, Ngạt, Rối loạn thần kinh trung ương, Hạ natri máu, Mất nước, Hạ canxi máu, Tăng canxi máu, Nhiễm toan, Nhiễm kiềm): Acyclovir, đặc biệt khi tiêm tĩnh mạch với liều lượng cao hơn, đôi khi có thể gây độc thần kinh với biểu hiện hôn mê, choáng váng, run, lú lẫn, ảo giác, kích động, co giật hoặc hôn mê. Điều trị bằng acyclovir nên được sử dụng thận trọng ở người cao tuổi và ở những bệnh nhân có bất thường về thần kinh tiềm ẩn, bệnh thận hoặc gan nặng hoặc bất thường đáng kể về điện giải hoặc thiếu oxy.
Bảo quản ở 15 - 25 độ C, tránh ẩm và ánh sáng
Nguồn tài liệu tham khảo:
Chuyên ngành: Dược sĩ Đại Học
Tôi là Nguyễn Hoàng Nguyên Đan, hiện đang là dược sĩ nhập liệu, quản lý lưu kho sản phẩm và biên soạn nội dung THUỐC tại ứng dụng MEDIGO. Với kiến thức đã học tại Đại học Y Dược TPHCM và hơn 4 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực y dược, tôi mong muốn mang đến cho cộng đồng những kiến thức về thuốc và sức khỏe hữu ích nhất.
17.000 đ - 45.000 đ
Đã bán 36 hộp
20.000 đ - 48.000 đ
Đã bán 6 hộp
75.000 đ - 77.000 đ
10.000 đ - 42.000 đ
Đã bán 4 hộp
12.000 đ - 45.000 đ
Đã bán 3 hộp
4.300 đ - 10.000 đ
Đã bán 59 viên
20.000 đ - 52.000 đ
Đã bán 4 vỉ
20.000 đ
170.775 đ
3.000 đ