Dược lực học
Fosfomycin dẫn xuất của acid phosphonic, được tách chiết từ Streptomyces fradiae và các Streptomyces khác hoặc được tổng hợp, có tác dụng diệt khuẩn. Tác dụng diệt khuẩn của thuốc là do ức chế enzym enolpyruvyl transferase, dẫn đến làm giảm sự tạo thành acid uridin diphosphat-N-acetylmuramic, là giai đoạn đầu của quá trình tạo thành tế bào vi khuẩn.
Fosfomycin có phổ tác dụng rộng. In vitro thuốc không chỉ có tác dụng trên các vi khuẩn Gram (+) mà còn có tác dụng trên cả Gram (-), đặc biệt là các vi khuẩn thường gây viêm nhiễm đường tiết niệu như E. coli, Proteus, Klebsiella, Enterobacter, Pseudomonas, Serratia, Enterococcus, Staphylococcus, Streptococcus, Haemophilus influenzae và Neisseria spp. Tuy nhiên, trong thực tế có gặp một vài chủng của Pseudomonas aeruginosa kháng lại thuốc và Bacteroides không nhạy cảm. In vivo tính hiệu quả đã được xác định đối với E. coli và Enterococcus faecalis.
Sự kháng thuốc có thể qua thể nhiễm sắc hoặc 1 số chủng theo cơ chế truyền qua plasmid. Cho đến nay chưa phát hiện thấy hiện tượng kháng chéo giữa fosfomycin với các kháng sinh khác, nhưng thấy có tác dụng hiệp đồng với một số kháng sinh nhóm b-lactam, aminoglycosid, macrolid, tetracyclin, cloramphenicol, rifamycin và lincomycin, chống lại Enterococcus, Staphylococcus kháng methicilin và Enterobacteria. Trong một số nghiên cứu, còn cho thấy khi phối hợp fosfomycin với kháng sinh nhóm aminoglycosid sẽ làm giảm độc tính trên thận của aminoglycosid.
Dược động học
Calci fosfomycin hấp thu kém qua đường tiêu hoá, sinh khả dụng theo đường uống chỉ đạt 30 - 40%. Thức ăn làm giảm sinh khả dụng và thải trừ thuốc, nhưng không ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Sau uống 4 giờ liều 1 g, nồng độ tối đa trong máu là 7 microgam/ml. Tuy nhiên, fosfomycin trometamol lại hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá. Sau khi uống 2 giờ liều 3 g nồng độ tối đa trong máu đạt được là 26,1 microgam/ml. Truyền tĩnh mạch 3 g dinatri fosfomycin nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được 220 microgam/ml.
Thuốc không gắn vào protein huyết tương và được phân bố trong hầu hết các mô, đặc biệt là thận, tuyến tiền liệt và túi tinh. Thuốc có thể đi qua hàng rào máu não, rau thai và sữa.
Trong cơ thể fosfomycin không bị chuyển hoá, được thải trừ chủ yếu qua thận dưới hình thức lọc qua tiểu cầu thận, 85% thuốc được thải trừ qua nước tiểu sau 12 giờ, một phần qua mật, 0,075% thuốc thấy ở trong phân. Sau khi uống 2 - 4 giờ liều duy nhất 3 g fosfomycin trometamol, nồng độ fosfomycin đạt được trong nước tiểu là 3 mg/ml và duy trì nồng độ điều trị trong vòng 36 giờ. Thuốc có thể dùng đường tiêm hoặc uống tuỳ theo dạng muối. Nửa đời thải trừ của thuốc khoảng 2 giờ.
Không có sự khác biệt nồng độ thuốc trong nước tiểu ở người cao tuổi và người trẻ tuổi. Do đó, không cần điều chỉnh liều.
Suy thận làm giảm nhiều bài tiết fosfomycin, do đó cần phải điều chỉnh liều.