Theo y học cổ truyền
heo y học cổ truyền, hạt Lúa mì có vị ngọt, tính mát, có tác dụng dưỡng tâm, ích thận, trừ nhiệt, chỉ khát.
Dùng chữa ỉa chảy đi tiêu lỏng; rang lên sắc uống thì giải khát khỏi phiền nhiệt. Thường dùng trong các trường hợp rối loạn chung về sức khỏe.
Ở Vân Nam (Trung Quốc) hạt được dùng trị bệnh tâm thần, phiền nhiệt, tiêu khát, tả lỵ, ung thũng, ngoại thương xuất huyết và vết bỏng.
Hạt lúa mì rang lên, sắc uống, có tác dụng chữa tiêu chảy. Ăn bánh mì mà không ăn kèm thêm rau thì bị táo bón.
Theo kinh nghiệm của nhân dân Tunisi, dùng rạ lúa mì sắc uống làm gầy người, sút cân.
Theo kinh nghiệm của nhân dân Ấn Độ, hạt lúa mì có tác dụng làm mát, chứa dầu; bổ, tăng dục, nhuận tràng, làm cho béo, làm tăng sự ngon miệng và vị giác, có tác dụng trị đa tiết mật.
Ở Trung Quốc, hạt rang lên được coi là có tác dụng trị chứng ra nhiều mồ hôi, đặc biệt trong bệnh lao phổi ở phụ nữ.
Trong y học dân gian Italia, mầm lúa mì hầm trong dầu ô – liu, được dùng ngoài, xoa trên da đầu để chữa chứng rụng tóc.
Theo y học hiện đại
Ở Trung Quốc, một lại thuốc thảo dược có thành phần gồm Hạt lúa mì, Đại táo, Rễ cam thảo có tác dụng an thần, chữa mất ngủ, dễ xúc động và co giật ở trẻ em. Các nghiên cứu khoa học chứng tỏ cơ chế an thần của thuốc là nhờ tác động lên sự vận chuyển của các ion natri, calci, kali của tế bào thần kinh qua màng nhờ đó ức chế sự hưng phấn của tế bào thần kinh.
Hạt lúa mì có tác dụng làm giảm cholesterol và triglycerid trong máu.
Lúa mì là loại chứa nhiều hoạt chất chống oxy hóa như polyphervol và flavonoid (tương đương hoặc cao hơn nghệ, dâu tây, tỏi, mận, cà rốt, rau cải). Cỏ lúa mì có tác dụng trong việc điều trị bệnh thiếu máu và viêm loét ruột kết mạn tính.